Chúng ta nghe khá nhiều về việc phảitu tập hạnh từ bi nhưng mình cứ loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu! Có người bảo rằng mình phải học cách sốnghy sinh cho người khác thì tâm từ bi mới nở rộ. Nhưng có người lại nói rằng từ bi mà không có trí tuệ là một kẻ dại khờ, ngu dốt. Câu chuyện làm đề tài từ bi thêm hấp dẫn là câu hỏi: 'có nên hay không nên cho tiền người vô gia cư, không nhà, không chốn nương thân (homeless)?' Có người cho rằng không nên vì nếu cho tiền họ, họ có thể mua ít rượu để uống và khi rượu vào thì có thể tâm trí họ sẽ không còn minh mẫn; do đó, họ có thể trở nên bạo động, và có thể, giết người. Nghiệp họ gây ra là do chính mình đã cho họ một số tiền, dù nhỏ, nên tạo duyên cho họ gây tội ác. Thế nên, mình cũng có dính phần trong đó!
Có người lại cho rằng đã từ bi thì không nên tính toán. Mình cứ cho người đi còn họ dùng tài vật vào chuyện gì đó là chuyện của họ. Vì lỡ có người quá đói cần ăn để sống nếu chúng ta phân vân không cho, có thể họ sẽ bị chết vì đói. Như vậy, có phải là mình thiếu đức từ bi hay không? Người khác lại bàn rằng: chắc ăn nhất là mua thức ăn cho họ, nếu họ đói, họ sẽ có cái gì đó bỏ bụng. Nếu họ không đói, họ có thể để dành khi nào đói thì ăn. Như vậy, sẽ tránh được tình trạng tạo duyên xấu cho họ gây tội ác.
Tùy theo ý thích của mỗi người chọn cho mình cách thể hiệnlòng từ tốt nhất. Tuy nhiên, bạn có thấy rằng nếu mình rãi tâm từ không hợp thời và không đúng cách sẽ khiến mình thêm phiền não và khó chịu! Bạn thử chiêm nghiệm câu châm ngôn: ‘Một miếng khi đói bằng một gói khi no.’ Hiệu ứng giá trị của một miếng và một gói khác nhau thật là nhiều khi mình biết cho đúng thời và hợp lúc.
Nhưng nếu suy xét kỷ bạn có thấy rằng sỡ dĩ mình phân vân không biết chọn cách thể hiệnlòng từ nào cho đúng là vì mình có bao giờ ứng dụnglòng từ đó với chính mình chưa? Mình đã có bao giờ ‘thử’ từ bi với chính mình? Đương nhiên, khi nói đến lòng từ bi là chúng ta thường liên tưởng đến từ bi đối với người khác. Nhưng Phật thường dạy: ‘Hãy tự thắp đuốc lên mà đi!’ Có nghĩa là, hãy tự độ mình rồi mới độ tha là vậy. Chính nhờ biết từ bi với chính mình mà ta mới hiểu cách nào để rộng mở lòngtừ bi đến cho mọi người. Chúng ta sẽ dễ cảm thông khi có người đang tự làm khổ lấy chính bản thân họ.
Nếu bạn còn lấn cấn vì cho rằng từ bi với chính mình thì sẽ sanh ngã ái thì bạn hãy đọc lời Phật đã dạy: “Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến thời không dao động. Ai không dao động thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau.” (phẩm Niết bàn-Tương Ưng Bộ Kinh). Ngã ái là luôn luôn chấp ngã và sinh tâm mê thích ta và cái của ta. Chỉ biết nghĩ đến mình và những gì thuộc về mình. Còn từ bi là ban vui, cứu khổ, một tình thương yêu không bờ bến, không phân biệt ta hay người.
Lòng từ bi không phải chỉ để ứng dụng đối với người khác mà còn bao gồm luôn cả chính bản thân mình nữa. Vì mình cũng là một chúng sinh! Nếu ai cũng thực hành hạnh Từ Bi với chính mình là không để cho những thị phi, đàm tiếu khiến làm cho mình bớt đau, bớt khổ, giúp cho mình giảm bớt bệnh tật, bớt tâm tham, sân, si. Không ai thương mình, bằng chính mình thương mình. Nếu tâm ta cứ tham muốn điều này đến điều khác thì rất dễ dẫn đến sân hận, bực bội và lo lắng. Đó có nghĩa là mình không biết từ bi với mình.
“Đứng về phương diệnđối trị cái giận, Từ Quán và Bi Quán là những phương pháp rất thực tế mà rất mầu nhiệm. Kinh có nói tới bảy cái bất lợi của sự giận hờn, của người không chịu buông thả, không chịu chuyển hóacơn giận của mình. Thứ nhất, người đó trông xấu xí…; điểm bất lợi thứ hai là ta nằm kẹt đau đớn trong cơn giận của ta. He lies in pain. Người giận nằm co quắp trong niềm đau của mình. Niềm đau này là do cái giận làm ra. Thứ ba là không có sự phát triển phong phú. Thân thể cũng như tâm hồn không phát triển và bừng nở được như một đóa hoa. Thứ tư là nghèo đi về tiền tài cũng như về hạnh phúc. Thứ năm là không được tiếng tốt. Thứ sáu là không có nhiều bạn. Và thứ bảy là người đó sẽ tái sanh trong cõi A Tu La, không có hạnh phúc. Đó là bảy điều bất lợi của những người ôm cái giận của mình mà không biết buông bỏ để chuyển hóa.” (Trái Tim Của Bụt - Sư Ông Nhất Hạnh).
Có một câu chuyện có thật xảy ra như sau: Một giáo sư và cũng là nhà nghiên cứu về đề tài hạnh phúctrải qua suốt 20 năm để tìm racông thứcmang đếnhạnh phúc. Cuối cùng ông cũng tìm ra và đem tất cả những sở học của mình viết thành nhiều quyển sách nói về hạnh phúc. Chẳng bao lâu, ông trở nên nổi tiếng vì trên thế gian này, ai cũng muốn có hạnh phúc. Thế là ông được mời đi thỉnh giảng khắp nơi trên thế giới về hạnh phúc. Ông bận rộn suốt ngày đêm nào lo soạn bài, nào bay đi khắp nơi để diễn thuyết. Công việc của ông ta tưởng chừng như không bao giờ hết! Một hôm, sau khi diễn thuyết xong có một khán giả muốn biết xem ông đã diễn giảng cho mọi người về hạnh phúc, nhưng chính bản thân ông có cảm nhận được hạnh phúc hay không? Câu hỏi như tiếng sét đánh ngang tai vì suốt bao năm qua ông miệt màitìm kiếmgiải đáp cho câu hỏi hạnh phúc. Nhưng tự bản thân ông chưa bao giờ nghĩ đến là chính mình phải cảm nhận nó!
“Maitri Bhavana Pháp Quán Từ Bi là một trong những pháp thiền thâm nhập sâu sắc nhất… Nó là một nỗ lực đem cái tâm tự-nhiên của bạn trở lại với bạn; nó là một nỗ lực mang cái bản lai diện mụctrở lại với bạn; nó là một cái nỗ lực mang bạn tới cái điểm mà bạn mới sinh ra và xã hội chưa khởi sự vo tròn bóp méo bạn, chưa biến đổi bạn thành kỳ quái (the society had not yet corrupted you). Khi một đứa trẻ được sinh ra nó ở trong trạng tháithiền quánTừ bi. Pháp thiền Từ bi chính là cảm-thức mênh mông của thân hữu, từ biyêu thương, đại bi. Khi đứa trẻ được sinh ra nó không biết thù ghét, nó biết chỉ có từ biyêu thương. Từ biyêu thương là tự nó có; sân hận là cái nó sẽ học về sau. Tính tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh (jealousy), tính chiếm-hữu (possessiveness), tính thèm-khát-được-như-người (envy), nó sẽ học về sau. Những cái này chính là những cái xã hội sẽ dạy những đứa trẻ: làm thế nào để tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh, làm thế nào để lòng-chứa-đầy-thù-ghét, làm thế nào để lòng đầy sân hận hoặc bạo lực… Trẻ con đang tín nhiệm nơi con người, nhưng dần dần chúng sẽ có những kinh nghiệm bị lừa dối đưa chúng tới những khó khăn, những vấn đề – những kinh nghiệm trong đó chúng bị chống đối, bị đàn áp, những kinh nghiệm trong đó chúng trở nên kinh sợ. Dần dần chúng sẽ học tất cả các trò lừa đảo của thế giới. Đó là những gì xảy ra, nhiều hoặc ít, cho tất cả mọi người.” *
Lời Phật dạy cách đây 2.600 năm chứa đựng một sự thậtcăn bản về bản chất của chúng sinh. Đó là, con người là một loại sinh vật xã hội (social animal). Chúng ta không thể sống thiếu sự đoàn kết, thương yêu cho mình và cho người. Cho nên, ai thực hành hạnh từ bi sẽ được những lợi ích như sau: “Này các Tỷ-kheo, với từ tâmgiải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tụcan trú, được tích tập, được khéo khởi sự, thời chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một? 1. Ngủ được an lạc; 2- Thức dậy được an lạc; 3- Không thấy các ác mộng; 4- Được mọi ngườithương yêu, quý mến; 5- Được các hàng phi nhânthương yêu, quý mến; 6- Được chư thiênhộ trì; 7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí… không thể làm hại được; 8- Tâm dễ dàng an tịnh; 9- Gương mặt sáng sủa; 10- Lúc lâm chung, tâm khôngmê muội (tâm sáng suốt); 11- Đề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-la-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên…” (Kinh Tăng Chi, Phẩm Từ - H.T. Minh Châu dịch).
Có một câu chuyện về một vị Lạt ma, vốn là bạn và cũng là thầy dạy của đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14. Một hôm vị lạt-ma này xin yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma sau khi trốn khỏi nhà tù do chính quyền Trung quốcquản lý bên Tây tạng. Khi tiếp kiến, ngài rươm rướm nước mắt, ngỏ lời xin đức Đạt lai Lạt ma chủ trì cho lễ sám hối của ngài. Kinh ngạc, đức Đạt lai Lạt-ma hỏi ngài đã phạm tội gì! Ngài trả lời đã phạm tội mất từ bi khi bị những người lính Trung quốchành hạ, đau đớn. Ngài đã có ý tưởngtrả thù và muốn làm tổn thương những người hành hạ ngài. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 từng nói: “Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, phải thực hànhlòng từ bi. Nếu bạn muốn được hạnh phúc, phải thực hànhlòng từ bi.” Khi mình đánh mất lòngtừ bi với chính mình thì cũng như chúng ta đánh mất hạnh phúc của chính mình vậy!
Khi quay nhìn lại tất cả những gì mình đã làm trong đời, từ việc tốt đến việc xấu. Chúng ta không chỉ hãnh diện với những việc mình đã làm đúng, mà cũng phải mở rộng lòng chấp nhận những điều sai sót, mình hối tiếc, đã lỡ gây ra. Chính vì còn chất người nên mình đã có lúc làm đúng, sai như vậy! Đương nhiên, mình sẽ cố gắngsửa đổi những sai phạm đã gây ra; nhưng không vì đó mà tự hànhhạ mình. Mình phải học cách biết tha thứ và từ bi với chính mình vì, nếu không, mình đang không chấp nhậncon người thật của mình, một con người có lúc đúng và có lúc sai, như tất cả mọi con người khác! Khi mình chối bỏ tâm từ bi với chính bản thân mình, thì thử hỏi, làm sao bạn có thể mở lòngtừ bi với người khác?
Giáo sư Kristin Neff của Đại học Texas là người tiên phong xét nghiệm lòng từ bi với bản thân như một công cụ để thúc đẩy sự chữa lành về mặt tâm lý, hạnh phúc và những mối quan hệ tốt đẹp hơn. Bà so sánhlòng từ bi với bản thân (self-compassion) và lòng tự trọng (self-esteem). Trong khi lòng tự trọng cao dựa trên những giá trị về sự thành công cao, thì lòng từ bi với bản thân là một phẩm chất cá nhân, ở đó chúng tađánh giá cao bản thân và đối xử tử tế với bản thân chỉ vì chúng ta là con người. Với thái độquan tâm cho bản thân giúp chúng tanhận ra điểm tương đồng và sự liên đới giữa chúng ta với những người khác, những người chia sẻ với chúng ta những khát vọng chung và những mầm mống của đau khổ.
Theo giáo sư Kristin Neff lòng từ bi với bản thân không làm chúng tayếu đuối, mà đúng hơn là một phương thuốc có thể làm giảm lo lắng và làm tăng khả năng phục hồi sau thất bại. Nó không đòi hỏi chúng ta phủ nhận hoặc đè nén những kinh nghiệmtiêu cực của chúng ta. Bản chất của từ bi với bản thân là thừa nhận nỗi đau, cảm xúccủa riêngchúng ta; và sau đó, an ủi mình bằng cách tạo ra những cảm xúc ấm áp, dịu dàng, và chăm sóc đến nỗi khổ, niềm đau của tự thân. **
Tóm lại, lòng từ bi với bản thân thường đem lại nhiều lợi ích. Khi mình biết đối xử tử tế với bản thân, chúng ta học cách mở rộng lòng mình với mọi kinh nghiệm, cảm xúc của chúng ta. Chúng ta cũng trở nên dể dàng từ bi với người khác hơn khi lòng yêu thương không có sự chiếm hữu hay vụ lợi, vì tình yêu thươngchân thật đó sẽ giúp cho ta có một tâm hồntrong sáng để lắng nghe. Và một khi trái tim được rộng mở, thì toàn bộ cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp và hài hòa. Nhờ thế mà lòng từ bi, mong muốn cho tha nhân được hạnh phúc, sẽ được nhân đôi lên với niềm hạnh phúc của tự thân. Chính những điều đó là một năng lực từ trường có khả năng trị bệnh cho mình; đồng thời, cũng có thể giúp cho mọi ngườixích lại gần nhau hơn.
Những cơn sóng lăn tăn đủ kỳ cọ những vết sương gió trên da thịt con trôi đi và còn lại đứa con của mẹ dại khờ. Con thả lỏng và nằm nổi trên mặt nước xanh...
Có cái gì đó nơi nụ cười, cứ như ông Phật của 40 năm trước bằng cách nào đó đã quay lại với ông. Ông thấy thích pho tượng, thích như chưa bao giờ thích đến thế.
Thuốc giải thù hận ở trong trái tim, cội nguồn của bạo động, là bao dung. Bao dung là một đạo đức quan trọng của bồ tát [những anh hùng và anh thư giác ngộ]...
Là loài hoa sanh trưởng nơi vùng nhiệt đới, nhờ kết hợp nắng mưa vào hạ mà trổ nhụy ra hoa. Do đó sắc hoa sen luôn tươi nhuần, hương hoa thì thanh nhãdịu dàng mà lan tỏa.
Một vùng đất bán sơn địa khô cằn sỏi đá, mùa nắng thường kéo dài. Cây cối gần như khô kiệt. Nhưng cây bồ đề vẫn xanh mát, gần như tách biệt hẳn với cảnh vật xung quanh.
Mới đầu hạ mà sen đã nở rộ. Nhìn những cánh sen trắng hồng tươi tắn vươn lên từ trong đầm nước, cũng làm dịu bớt cái nắng nóng mà tôi mang tận từ thành phố về đây.
Rong ruổi trên những nẻo đường quê tháng 8, chợt tiếng trống múa lân trong ngõ nhà ai rộn lên từng hồi làm lòng tôi chợt thấy xuyến xao bao nỗi niềm nhớ...
Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa. Ừ! ai cũng hay nhìn cuộc đời qua lăng kính của mình. Chuyện anh Cuội theo đó sinh nhiều ngõ ngách nhiêu khê...
Mười năm hay bao nhiêu năm đi nữa, thì ánh đạo từ bi và niềm tin của em đối với chị vẫn nguyên vẹn như cái thuở chúng ta cùng hiện hữu trên cõi đời này.
Dư âm về người là đời sống thanh cao thoát tục, là hạnh nguyên vị tha, là quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Sư ra đi mang theo nhiều tâm nguyện còn dang dở.
Sáu mùa xuântrôi qua kể từ ngày chị rời xa trần thế, tôi vẫn không ngờ mình đã xa chị trong ngần ấy thời gian. Một người chị mà tôi luôn gắn bótrong suốt quãng đời tuổi thơ.
Biết cảm thông và chia sẻ niềm an vui với huynh đệ, lắng nghe và chấp nhậnyếu kém của người khác để cùng nhau tinh tiếntu học, đó là những hạt giống thiện lành.
Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo...
Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph.
Mỗi chuyến đi là mỗi tầm nhìn được mở rộng. Mỗi chuyến đi giúp chị nhận thức rõ hơn bức tranh muôn màu của kiếp sống nhân sinh.. Chị có được những giây phút tĩnh lặng...
Bờ biển buổi sáng thật yên tĩnh. Tôi đi lần ra cồn cát ngay phía trước cổng chùa. Nước rút làm cho bờ cát thoai thoải trải dài một màu trắng bạc lấp lánh.
Dù gì thì đời sốngtu hành của thầy cũng thật giản dị. Nơi thầy ở vẫn là mái am tranhđơn sơ, ăn uống thì đạm bạc, áo vải sờn vai mà vẫn thong dongtự tại với tháng ngày.
Quanh bờ suối, rải rác nhiều tảng đá lớn nhỏ với đủ hình thù tạo dáng lạ mắt gợi lên một phong cảnh trầm mặc u nhàn. Tuấn nhìn thấy màu y vàng của một vị sư...
Thời gian thấm thoắt qua nhanh, cuối cùng Ông tìm đến khu rừng Tuyết này để tịnh tu. Đạo mầu chưa chứng, nhưng Ông cũng tự tìm thấy niềm vui trong pháp thiền định.
Ấn tượng nhất vẫn là tượng Phật lộ thiên cao gần ba mươi mét, uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời gió núi. Tượng Phật đúc xi măng, trong ruột đổ đá xanh...
Kính bạch thầy Quan Thế Âm. Thầy là vị Bồ tát có lòng đại từ, đại bi nên thầy có thể nghe mọi nỗi khổ đau của không chỉ nhân thếmà cả vạn loại chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
Kính bạch thầy Di Lặc. Thầy có biết không, con đã ứng dụngthực hànhgiáo lý mà thầy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy. Mỗi ngày con phải biết mỉm cười...
Nếu hành Bồ tát đạo thì bạn sẽ kiến tạo được bằng an cho mình - một trong vô vàn chúng sinh trong lục đạo. Khi ấy bạn sẽ có vốn liếng bằng an để hiến tặng cho người.
Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi.
Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây.
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩHuệ Trung trước đó.
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩ và tâm thức của tôi
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.