Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhẫn Nhục

06 Tháng Sáu 201400:00(Xem: 11005)
Nhẫn Nhục

NHẪN NHỤC

Hạnh Huệ


blankĐại sư ViveKananda trong quyển Nhất Nguyên Thế Giới, có nói: “Mọi người chúng ta đến thế gian này để tranh đấu như trên bãi chiến trường. Chúng ta đến đây với những giọt nước mắt để hết sức mở một con đường, để rẽ sóng mà đi trên biển đời vô tận. Chúng ta tiến lên với những thế kỷ dài dặc ở đằng sau và khoảng mênh mông ở đằng trước. Và chúng ta cứ đi như thế cho tới cái chết đến đưa ta ra khỏi chiến trường này dù thành công hay thất bại”.

Đại sư cũng đã dẫn lời của một thi sĩ người Anh từng nói: “Chúng ta cưỡi những đám mây vàng mà đến trên thế gian này”. Nghe qua thì rất là thơ mộng nhưng thật sự chúng ta đến thế gian này là để tranh đấu. Bởi vì thực tế cuộc sống thì không phải đều tốt đẹp, dễ dàng như các thi sĩ diễn tả mà tất cả chúng ta khi sống đều phải gồng mình để hứng chịu mọi thứ. Vì thế, mọi người thường bảo sống là tranh đấu; sống là tổn thương. Sở dĩ chúng ta có cái nhìn đau khổ về thế gian này như vậy là vì sinh tồn, vì những mục đích khác nhau mà chúng ta phải tranh đấu để xác định cho được bản ngã của mình. Freud có nói: “Con người có bản năng gây hấn”. Thật vậy, nếu nhìn kỹ, ngay cả trong gia đình, cha mẹ đối với con cái hoặc con cái đối với cha mẹ, không phải lúc nào cũng có sự thông cảm hay dùng những lời lẽ êm dịu với nhau. Ở ngoài xã hội cũng vậy, thường chúng ta ít khi chịu nhường nhịn bất cứ ai, vì mỗi người đều cần phải có chỗ để đứng. Ai cũng muốn những người xung quanh phải ý thức được sự có mặt của mình, cho nên ai cũng muốn mình phải tiến lên phía trước, rồi từ đó lại nảy sinh ra những nhu cầu về danh lợi, quyền lực... Cách ngôn có câu: “Chúng ta vì danh lợi mà xô nhau đến. Và chúng ta cũng vì danh lợi mà đẩy nhau đi”. Chỗ nào có địa vị, có danh vọng thì chỗ đó có nhiều người tìm tới. Nhưng vì số địa vị, danh vọng đó quá ít ỏi, trong khi số người tìm đến lại quá nhiều cho nên mỗi người lại phải tranh đấu để giành được chỗ mình muốn. Và kết thúc những cuộc tranh đấu, giành giật, xâm lấn, tấn công đó sẽ đưa chúng ta đến chỗ thù hận, sân giận, đau khổ, chết chóc… Để rồi cuối cùng, chúng ta phải nghĩ đến hòa bình, mong muốn hòa bình, thích sống hòa bình, trân trọng hòa bình và chúng ta muốn sống hạnh phúc, muốn có tình huynh đệ, muốn thế giới đại đồng, muốn có một thiên đường nơi hạ giới... Nhưng thật ra, đó sẽ vẫn chỉ là ước muốn, nếu như mầm mống “chiến tranh” vẫn còn nằm ngay trong tâm thức mỗi người chúng ta. Hiện tại, nhân loại tiến bộ quá nhiều về mọi mặt, nhưng chiến tranh vẫn không ngừng, không dứt trên thế giới này. Giữa mơ ước và thực tại có một khoảng cách khá xa. Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường để có thể sống bình an, hòa bình. Và Nhẫn nhụcNhẫn nhục Ba-la-mật là một trong những con đường ấy.

Nhẫn nhục là sự nhịn nhục, là chịu thua, là nhường nhịn, là hạ mình... Làm sao chúng ta có thể an lạc bằng cách quá tiêu cựcyếu đuối thế chứ? Thường thì người ta phải nhường, phải thua vì nhiều lý do:

Thứ nhất, đó là do sợ hãi. Vì sợ hãi, không dám chống cự nên mình phải nhịn. Chẳng hạn như thời xưa, dân đen thấp cổ bé miệng, yếu thế hơn không dám chống trả lại bọn cường hào ác bá, cho nên buộc lòng câm nín, chịu đựng tất cả những áp bức, bóc lột.

Thứ hai, nhịn nhục là vì mình có cái tâm nịnh nọt để cầu lợi.

Thứ ba, nhịn nhục để đạt được cái lợi riêng của mình. Cái này người ta còn gọi là “cố đấm ăn xôi”.

Thứ tư, nhịn nhục là vì sinh kế, để có miếng cơm, manh áo thì phải chịu ép mình, chịu thua, chịu thiệt. Ở trường hợp này, có những người khi không còn chịu đựng nổi thì lại đâm ra chán đời, hận đời.

Thứ năm, nhịn nhục để chờ đợi thời. Các nhà Nho ngày xưa có câu: “Phú quý bất năng dâm. Bần tiện bất năng di. Uy vũ bất năng khuất”. Có nghĩa là: Khi giàu có không nên dâm dật. Khi nghèo khó chớ nên đổi chí. Gặp sức mạnh không nên khuất phục. Đây là câu nói để khuyên dạy con người nên có một tính cách cứng cỏi, có lập trường. Bên cạnh đó, các nhà Nho cũng không tiếc lời ca tụng những người khéo léo, biết dùng nhu nhược để thắng cương cường. Vì một mục đích cao cả nào đó mà người ta phải nhẫn nhục để chờ đợi thời cơ, khi hoàn cảnh hiện tại chưa cho phép mình vươn lên. Như vậy ở đây, nhẫn nhục cốt là để thắng chứ không phải vì chịu thua, chịu lép vế. Ví dụ như khi Hàn Tín phải chui qua chân của một tên vô lại ngoài chợ, mọi người đã cười chê, cho rằng ông không có chí khí để làm lớn nhưng ông vẫn làm thinh, ẩn nhẫn. Về sau, khi công thành danh toại, ông cho người gọi tên vô lại đó về làm lính dưới trướng của mình, nói rằng nhờ tên đó mà ông mới có được ngày hôm nay. Hay như chuyện Việt Câu Tiễn khi bị bắt làm tù binh, để gây tạo lòng tin nơi Ngô Phù Sai, Câu Tiễn đã phải nếm phân để đoán bệnh cho vua. Đó là cái thu mình của những con hổ chờ mồi. Và rõ ràng, sau khi được Ngô Phù Sai tha về nước Việt, thì ngay lập tức, Câu Tiễn đã bắt tay vào việc chiêu binh để trả thù. Hoặc như ông Gandhi – nguyên thủ của Ấn Độ đã chủ trương chống người Anh bằng cuộc chiến “bất bạo động”. Nếu như Alexandre Đại đế, Napoleon, Thành Cát Tư Hãn... chiến thắng trên vó ngựa, được xem là những vị anh hùng thì riêng ông Gandhi, sau khi quân Anh rút khỏi Ấn Độ, người ta đã tôn vinh ông là Thánh – Thánh Gandhi. Bởi cái thắng của ông là xuất phát từ sự nhẫn nhịn bất bạo động của mình.

Thứ sáu, nhịn nhục hy sinh cho lợi ích chung to lớn chứ không phải vì tư lợi cho mình. Như trường hợp của ông Lạn Tương Như – một quan văn và Liêm Pha – một đại tướng của nước Triệu. Bằng tài thương thuyết, Lạn Tương Như đã tạo được mối giao hòa giữa hai nước Tần và Triệu. Vua Triệu phong chức Thừa tướng cho ông, cao hơn chức của Liêm Pha. Liêm Pha nghĩ rằng, ông là một đại tướng đã vào sanh ra tử trên chiến trường để ổn định quốc gia, công lao hãn mã rất nhiều. Trong khi Lạn Tương Như chỉ nói có vài lời mà được làm quan cao hơn mình. Ông rất bất mãn, bèn quyết tâm hạ nhục Lạn Tương Như. Lạn Tương Như biết được điều này nên thường xuyên tránh mặt Liêm Pha. Những thuộc hạ của ông thấy vậy không bằng lòng, cho rằng uy vũ như vua Tần, ông còn không chịu nhục, sao nay lại né mặt Liêm Pha. Lạn Tương Như nghe vậy liền nói: “Như các ông đã nói, vua Tần mà ta đây còn không sợ, thì sao lại sợ Liêm tướng quân. Nhưng bởi vì nước Triệu chỉ còn có ta và Liêm tướng quân làm nơi nương tựa cho tất cả mọi người, nếu ta làm khác, thì kẻ thù sẽ nhân cơ hội này mà lũng đoạn nước Triệu. Ta vì nghĩ đến tương lai của nước Triệu mà nhường Liêm tướng quân chứ không phải vì sợ”. Câu nói này của Lạn Tương Như lọt đến tai Liêm Pha, Liêm Pha cảm thấy rất hối hận, bèn tự trói mình, đến nhà Lạn Tương Như để tạ lỗi, chỉ vì một chút danh tiếng hão huyền mà suýt chút nữa đã làm hỏng việc lớn. Cái nhẫn của Lạn Tương Như là cái nhẫn của người thức thời.

Thứ bảy, nhịn nhục biểu lộ những tư cách hơn người. Vì những người có bản lãnh là những người điềm tĩnh, có suy nghĩ chín chắn chứ không nóng nảy hay hành động nhất thời, bộp chộp. Như chuyện của Trương Lương ba lần nhặt giày cho Huỳnh Thạch Công, cũng như ráng đến sớm để gặp ông ta mà bị đuổi về, đến lần thứ ba mới được trao cho quyển binh pháp. Đó là những tấm gương ẩn nhẫn của người xưa.

Chúng ta sân giận vì bị trái ý, chúng ta cho rằng người khác đang nói xấu, nghĩ xấu về mình; người khác đang làm hại những người chúng ta thương yêu và làm lợi ích cho những kẻ thù của chúng ta... Pascal nói “Hành động trong lúc phẫn nộ không khác gì giương buồm ra khơi lúc trời giông tố”. Phật dạy “Hiềm hận được nhiếp phục khi nghĩ rằng: ‘Nó đã, đang và sẽ làm hại ta; nó đã, đang và sẽ làm hại người ta yêu; nó đã, đang và sẽ làm lợi cho người ta không yêu. Nhưng lợi ích từ đâu đến.’ Khi nghĩ như vậy thì hiềm hận sẽ không còn lý do tồn tại”. Để chiến thắng được những hiềm hận, sân giận, mỗi khi tâm sân nổi lên, chúng ta hãy suy nghĩ lại xem nếu cứ để những tư tưởng trên ở trong đầu thì chúng ta sẽ được lợi ích gì hay chỉ toàn là những phiền não? Và chỉ cần bỏ qua thì tất cả mọi hiềm hận sẽ được tiêu diệt.

Tất cả những sự nhẫn nhục nêu trên, có thể tạm gọi là sự nhẫn nhục của thế gian. Nhưng còn một loại nhẫn nhục dành cho những người quay lại với chính mình.

Thứ nhất, chúng ta nhẫn nhụcchúng ta thấy rõ được chân lý là sống mà cứ xung đột với người khác thì xung đột không bao giờ dứt. Kinh Pháp Cú nói, chỉ có từ bi mới xóa bỏ hận thù, chứ không bao giờ hận thù có thể trả được hận thù. Vì nếu “lấy oán báo oán” thì oán ngày càng thêm tiếp nối, chứ không thể dứt được. Trong kinh Bổn Sanh có kể chuyện vua Trường Thọ nhường nước cho kẻ địch vì sợ nếu để chiến tranh xảy ra thì sinh linh bị đồ thán. Ông vào ẩn trong rừng sâu cùng vợ con. Sau vì chiều ý vợ, muốn được sanh con giữa sự diễu hành của binh mã triều đình. Ông đưa vợ về kinh đô và bị phát hiện. Vua kia bắt được ông và định ngày xử trảm. Ông dặn con đừng trả thù. Con ông tìm cách thân cận vua và có cơ hội trả thù cho cha, nhưng sau ba lần rút kiếm, chàng bỏ ý định trả thù vì nhớ lời cha dặn. Vua trả lại ngôi cho chàng. Chàng nói lý do không giết vua như sau:

“Nếu như tôi là con vua Trường Thọ vì muốn báo thù cho cha mà tôi giết bệ hạ, thì con của bệ hạ sẽ vì báo thù cho bệ hạ mà giết tôi. Rồi quần thần, những người trung thành với tôi sẽ vì tôi mà giết con bệ hạ. Rồi những người thân tín của con bệ hạ sẽ vì con bệ hạ mà giết những kẻ thân tín với tôi. Như vậy thì mối thù đó không bao giờ chấm dứt. Còn nếu như tôi dứt ngang tại đây thì tất cả oán thù đều tiêu tan mà không phải đổ thêm xương máu.”

Nếu chúng ta biết sợ sự luân hồi đời đời kiếp kiếp giữa những vay trả oán thù thì chúng ta nên giải quyết mọi việc bằng sự nhẫn nhịn, ôn hòa. Có như vậy thì mọi oan trái, thù hận mới tiêu tan, thậm chí, có khi còn biến những hận thù thành yêu thương, bè bạn với nhau.

Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận.
Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu.
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc.
Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự do.

Tạm dịch:

Nhịn nhịn nhịn, trái chủ oan gia từ đây dứt.
Nhường nhường nhường, ngàn vạn tai họa cũng đều tiêu.
Nín nín nín, vô số cảnh giới thần tiên do đây được.
Thôi thôi thôi, công danh trùm thế gian cũng chẳng tự do.

Một gia đình năm đời cùng sống chung với nhau. Làng xóm đều ca tụng đại gia đình ấy sống hòa thuận. Chuyện đến tai vua, vua liền ban chiếu khen tặng. Và khi được hỏi bí quyết nào để mọi người có thể sống chung với nhau hòa hợp như vậy thì một người trong gia đình đã lấy giấy và viết vào đó 100 chữ “Nhẫn”. Thế đó, chỉ cần biết nhường nhịn nhau thì bao nhiêu người cũng có thể sống với nhau được. Còn nếu như không biết nhẫn, thì chỉ có hai vợ chồng thôi cũng không thể êm ấm được. Đã có rất nhiều cặp vợ chồng ly dị chỉ vì tư tưởng bất đồng.

Thứ hai, chúng ta nhẫn là do lòng từ bi. Có một vị Hòa thượng vào một nhà nọ khất thực. Chủ nhà là thợ kim hoàn đang ngồi gắn một viên ngọc vào mão của vua. Thấy Hòa thượng, ông chủ rất mừng liền thỉnh vào nhà ngồi nghỉ để ông ra sau nhà lấy vật thực cúng dường. Lúc đó, một con ngỗng đi ngang qua, nó thấy viên ngọc để trên bàn tưởng là có thể ăn được cho nên mổ lấy và nuốt vào bụng. Ông chủ đi ra thấy mất viên ngọc, nhìn xung quanh không thấy ai ngoài Hòa thượng. Ông đoan chắc rằng vị Hòa thượng ấy đã lấy cắp viên ngọc nên yêu cầu Hòa thượng trả lại cho mình. Hòa thượng lại ấm ớ bảo rằng: “Thí chủ tâu với vua cho Hòa thượng xin thì chắc nhà vua cũng không nỡ nào bắt lỗi thí chủ”. Chủ nhà sau khi năn nỉ mấy lần mà Hòa thượng vẫn cứ nói như vậy, ông tức mình không thể nhẫn được nữa, bèn lấy gậy ra đánh Hòa thượng đổ máu. Thấy máu đổ, con ngỗng bèn chạy đến uống. Đang cơn nóng giận, chủ nhà bèn phang luôn một gậy, ngỗng ngã lăn ra chết . Lúc đó, Hòa thượng mới nói: “Ta ráng chịu đau, chịu khổ như thế này để cứu con ngỗng đó mà bây giờ thí chủ lại đập nó chết rồi.” Nghe vậy, chủ nhà rất ngạc nhiên liền hỏi: “Tại sao Hòa thượng lại nói như vậy?” Hòa thượng trả lời: “Chính con ngỗng này hồi nãy mổ viên ngọc, nhưng vì sợ nói ra thí chủ sẽ mổ bụng nó để lấy viên ngọc, thành thử đành phải chịu trận. Ai dè giờ nó cũng chết”. Chủ nhà nghe xong, liền mổ bụng con ngỗng lấy viên ngọc ra, rồi quỳ xuống xin lỗi Hòa thượng: “Giá mà Hòa thượng đừng nhẫn chịu cứ nói ra sự thật thì đâu đến nỗi tôi phải xúc phạm đến ngài”. Hòa thượng bảo: “Tôi không thể nào nói để hại tính mạng người khác còn mình thì được yên thân”.

Ngài Bạch Ẩn cũng đã phải chịu bao oan ức, tiếng đời gièm pha để nuôi một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đó cũng là một điển hình cho sự nhẫn nhụclòng từ bi.

Còn đây là lá thư của một vị linh mục đã cầu nguyện trong suốt ba mươi năm, được một tờ báo dịch sang tiếng Việt “Lạy Cha, vì danh Cha, xin ban cho con chỉ có một đau khổ là làm cho người khác đau khổ, chỉ có một niềm vui là góp phần làm cho người khác hạnh phúc để anh em con được hạnh phúc hơn. Xin cha ban cho con một tâm hồn mềm mại để con thà chấp nhận yếu đuối mà không tự bào chữa còn hơn làm cho người khác buồn lòng hay chán nản. Xin cha ban cho con một tâm hồn ngay thẳng để con đừng bao giờ nghĩ xấu về điều người khác làm cho con phiền lòng. Xin cha ban cho con một tâm hồn đơn sơ để con đừng trở thành gánh nặng cho những người chung quanh. Xin cha ban cho con một trái tim nhiệt thành luôn mở ra đón nhận những ai có thể ghét con, phân bì hay cạnh tranh con. Xin cha ban cho con một trái tim khiêm nhượng để con đừng cứng cỏi trước những lời chỉ trích, những thái độ giả dối, những lời phê phán độc ácvội vàng. Xin cha ban cho con một tâm hồn quảng đại để con biết chịu đựng những cử chỉ hẹp hòi và ích kỷ. Xin cha ban cho con một ý chí vững vàng để con biết kiên nhẫn cho dù mệt mỏi ngay cả khi bị đối xử bạc bẽo. Xin cha ban cho con một ý chí tỏa rạng, để chung quanh con không ai nản lòng và thất vọng. Xin cha ban cho con đừng bao giờ xét đoán khi không có bằng chứng và biết xét đoán với lòng nhân hậu. Xin cha ban cho con đừng bao giờ tin lời người ta nói xấu nhau và nhất là đừng bao giờ lặp lại lời đó với người khác. Xin cha ban cho con biết lắng nghe, biết đoán ý, biết tha thứ để anh em con được hạnh phúc hơn”.

Khi tu, chúng ta cũng không thể thoát khỏi sự gièm pha, châm chích độc ác của người khác. Cho nên nếu không có tấm lòng quảng đại để chịu đựng được những lời lẽ cay độc, chúng ta sẽ phẫn hận trong lòng hoặc sẽ phản công lại bằng những lời độc địa không kém. Vì vậy, chỉ có tình thương đối với con ngườiý thức được sứ mạng của mình thì những người tu hành mới có thể chịu đựng được. Người nào nhẫn nhục càng nhiều thì sức mạnh tinh thần người đó càng lớn.

Thứ ba, nhẫn nhục là vì muốn độ người khác. Phật giáovô số những hình ảnh nhẫn nhục này. Điển hình là ngài Xá Lợi Phất – ngài là một bậc nhẫn nhục đặc biệt. Trong hàng ngũ các đệ tử của Phật thì ngài Xá Lợi Phất được xem là trí tuệ đệ nhất. Nghe thiên hạ còn ca tụng ngài là một người nhẫn nhục hiếm có, ngài không bao giờ lớn tiếng với bất cứ ai và luôn hòa thuận với các huynh đệ. Một ông Bà-la-môn không tin vào điều đó và quyết định sẽ thử ngài. Một hôm, khi ngài đi khất thực, ông Bà-la-môn đi sau chửi rủa mọi điều, Xá Lợi Phất vẫn im lặng đi. Tức giận, Bà-la-môn bèn đấm vào lưng của ngài một đấm. Giật mình, ngài hỏi: “Cái gì vậy?” Ngài đứng lại một chút rồi đi tiếp, không hề nhìn lại xem ai đã đấm mình. Ông Bà-la-môn chạy lên phía trước xin sám hối và rước ngài về nhà mình thọ thực.

Hôm khác, ngài tìm cách độ một vị trưởng giả rất keo kiệt, bỏn xẻn, không bao giờ bố thí cho bất cứ ai. Ngài bèn đi đến nhà ông khất thực. Mặc dù đang ăn nhưng ông vẫn thản nhiên không đếm xỉa đến. Ngài kiên trì ôm bình bát đứng hoài. Ăn xong, thấy ngài Xá Lợi Phất vẫn đứng đó, ông ta súc miệng xong rồi nhổ vào bình bát của Ngài. Ngài Xá Lợi Phất liền đậy bình bát lại, cám ơn và chúc phúc cho lão trưởng giả rồi đi. Vị trưởng giả hết sức ngạc nhiên, ông nghĩ bụng không biết rằng ngài Xá Lợi Phất có đi nói xấu mình không, nên đi theo ngài. Ông thấy ngài Xá Lợi Phất bưng bình bát về hương thất của đức Phậtbạch Phật rằng: “Hôm nay, con đến nhà trưởng giả kia khất thực, ông ấy không cho nhưng có nhổ một ít nước bọt vào bình bát con. Con xin đức Thế Tônlòng từ cho con rải những giọt nước này trên đường đức Thế Tôn đi kinh hành và xin chúc phúc cho vị trưởng giả đó”. Đức Phật đồng ý chú nguyện cho vị trưởng giả ấy được nhẹ phiền não, hướng về Bồ-đề... Chứng kiến những việc ấy, vị trưởng giả hết sức cảm động và từ đó bèn thay đổi thái độ, quy kính Tam Bảo.

Vì muốn độ người khác mà phải nhẫn những cái khó nhẫn như vậy.

Còn một cấp độ khác là nhẫn nhục Ba-la-mậtnhẫn nhục đáo bỉ ngạn. Nhẫn nhục ở đây là vì mục đích giải thoát.

Phật tử học đạo cần phải hiểu rõ đạo Phật không phải chỉ là một tôn giáo dạy chúng ta ăn hiền ở lành hay làm lành lánh dữ theo luân lý thông thường trong cuộc sống mà thôi. Hằng ngày, khi tụng kinh, chúng ta thường nghe đọc:

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.

Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ
Nguyện hiểu nghĩa chơn đức Thế Tôn.

Chỗ rốt ráo của đạo chính là hiểu cho được nghĩa chơn thật của Như Lai. Như Lai ở đây không có nghĩa là một vị thần linh, có thể ban phước, giáng họa cho bất cứ ai mà Như Lai chính là Phật tánh sẵn có trong mọi người chúng ta. Tất cả chúng ta đều có khả năng thành Phật. Vì thế, chúng ta cần phải tìm mọi cách để Phật tánh hiển lộ trọn vẹn. Nhưng mục đích này nếu không có người chỉ dẫn thì tự mình không thể thấy được. Vì vậy, chúng ta cần phải nương theo lời chỉ dạy của chư Phật, chư Tổ là những bậc giác ngộ. Chúng ta phải hết lòng, phải tha thiết lắm, họa may mới hiểu chút ít nào đó. Chứ không phải chỉ nghe chút chút mà có thể thấu hiểu được. Từ lúc phế bỏ hết những hình sắc tốt đẹp ở ngoài đời, những sự nghiệp thế gian để bước chân vào đời tu, ai cũng mong tiến được tới chỗ rốt ráo này. Nhưng rõ ràng, đấy không phải là chuyện dễ dàng. Người xuất gia không phải là người mà tướng văn, tướng võ có thể làm được, mà phải là người có chí xuất trần hay còn gọi là xung thiên chí (chí chọc trời). Vì thế, khi mới vào chùa, chúng ta bị thử thách rất nhiều để xem ý chílập trường của mình có vững chắc hay không. Và một trong những yếu tố quan trọng là phải dẹp trừ bản ngã. Phật tánh là “duy ngã độc tôn”, còn bản ngãchúng ta thường chấp chặt cho đó là mình, thật ra chỉ là giả tạo. Phải bỏ được cái ngã đó thì mới nhận chân được mình.

Ngài Phù Sơn Pháp Viễn đi với bảy mươi người đến gặp Hòa thượng Quy Tĩnh để hỏi đạo. Đến cửa Tam quan đã không cho vào mà còn chửi mắng là “Tăng châu huyện,” không có tâm tu hành. Ở đây, không có cơm thừa canh cặn để nuôi. Bị đuổi như vậy, nhưng những người này vẫn không chịu đi. Sau bị tạt nước rồi tung tro. Đám đông nổi giận rút lui hết, chỉ còn lại ngài Phù Sơn Pháp ViễnThiên Y Nghĩa Hoài. Lúc đó, Hòa thượng Quy Tĩnh mới hỏi:

- Tại sao lại không chịu đi?

Ngài Phù Sơn Pháp Viễn thưa:

- Con nghe đạo danh của Ngài đã lâu cho nên mới lặn lội từ xa tới đây để học đạo thì sá gì một muỗng tro, muỗng nước mà bỏ đi.

Hòa thượng Quy Tĩnh nghe vậy gật đầu chấp thuận rồi yêu cầu ngài Pháp Viễn sung chức Điển tọa, còn ngài Nghĩa Hoài được cho nhập chúng tu học bình thường.

Một hôm, Hòa thượng Quy Tĩnh đi vắng, chúng xin Điển tọa cho ăn cháo nêm. Khi dọn ra quả đường thì Hòa thượng về đến. Ngài cũng vào ăn, rồi hỏi, hôm nay có ai cúng dường hoặc giỗ chạp gì mà lại nấu cháo nêm? Mọi người trong chúng hoảng quá liền thưa rằng Điển tọa bảo nấu. Hòa thượng liền cho gọi Điển tọa lên. Điển tọa thưa:

- Vì thấy chúng ăn uống khổ cực quá cho nên mới nấu một bữa cháo nêm.

Hòa thượng Quy Tĩnh bèn nói:

- Khi nào ông làm trụ trì thì ông muốn cho chúng ăn gì tùy ý. Còn bây giờ, ông không có quyền lấy tiền của bá tánh thập phương để lấy lòng đại chúng.

Sau đó, Hòa thượng bắt ngài Pháp Viễn đem y áo của mình ra bán đền tiền nồi cháo rồi đuổi ra khỏi chùa. Ngài Pháp Viễn xin sám hối không được. Ngài nhờ các bậc tôn túclân cận xin giùm. Hòa thượng nạt: “Ông đưa các lão Hòa thượng đến để làm áp lực với ta phải không?”

Rồi đuổi đi ngay. Ngài Pháp Viễn đành phải ra đi, chỉ xin Hòa thượng mỗi lần giảng pháp cho ngài được vào nghe. Hòa thượng đồng ý.

Nhẫn chịu nghiệp cũ
không tạo nghiệp mới.
Có như vậy, chúng ta mới
thực sự làm chủ chính
NS. Hạnh Huệ
(Thiền Viện Viên Chiếu)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11351)
Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử.
(Xem: 9851)
Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ...
(Xem: 11273)
Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.”
(Xem: 9136)
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng ta nhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
(Xem: 9698)
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
(Xem: 9781)
Một trong bốn chân lýĐức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
(Xem: 13764)
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
(Xem: 9718)
Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi ta soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứvị lai được giải thích cặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
(Xem: 12822)
Vận nước như dây quấn, Trời Nam mở thái bình, Vô vi ở điện các, Chốn chốn dứt đao binh...
(Xem: 9865)
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
(Xem: 10359)
"Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại..."
(Xem: 17120)
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ - Trôi chảy mãi ngày đêm không ngừng nghỉ như thế này ư?
(Xem: 9280)
"Từ lúc này cho đến hết ngày hôm nay, tôi sẽ đưa vào sự thực tập những gì tôi tin tưởng một cách tối đa như tôi có thể"...
(Xem: 10487)
Khi trải qua một cơn bạo bệnh hay tuổi đã xế chiều thì ý niệm về lão-bệnh-tử, tức phải đối mặt với sự chết hiện ra ngày một rõ ràng hơn...
(Xem: 14204)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 9925)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp...
(Xem: 11350)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
(Xem: 9259)
Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
(Xem: 11354)
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
(Xem: 10834)
Bài phát biểu của của đô đốc William McRaven, người đứng đầu Bộ chỉ huy Các chiến dịch liên hợp đặc biệt - NAVY SEAL - MỸ
(Xem: 14501)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 10493)
John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”
(Xem: 9313)
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnhnhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
(Xem: 13333)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 9763)
“Người ngu thấy là ngọt, Khi ác chưa chín muồi; Ác nghiệp chín muồi rồi; Người ngu chịu khổ đau”.
(Xem: 13913)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 20179)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 10125)
Ta giao tiếp với bạn bè điều tối kỵ nhất là nói về lợi và đừng bao giờ dùng thủ thuật về lợi để mưu cầu.
(Xem: 8572)
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
(Xem: 9644)
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bó thủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
(Xem: 8697)
... những câu chuyện buồn và bất hạnh bao giờ cũng để lại những vết khắc sâu thẳm trong tim, khó mà nguôi ngoai dễ dàng.
(Xem: 12453)
Phật tử, chúng ta cần phải nhận định rõ ràng, đức Phật không phải là một vị thần hay thượng đế để ban ơn, giáng họa cho bất cứ ai.
(Xem: 28007)
Tôi tin rằng mọi khổ đau đều sinh ra từ ngu muội. Người ta gây ra đau đớn cho người khác, khi ích kỷ theo đuổi hạnh phúc hay thỏa mãn riêng mình...
(Xem: 10621)
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
(Xem: 9778)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đềgiác ngộ thành Phật.
(Xem: 11827)
Nhờ chút công đức phóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
(Xem: 10428)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Đời Đạo.
(Xem: 8868)
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
(Xem: 10526)
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
(Xem: 8907)
Cuộc đời của đức Phật rất vĩ đại, vô vàn những điều hay, chúng ta không tài nào học hết được.
(Xem: 9898)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
(Xem: 9547)
Ngọn núi cao như Hy Mã Lạp Sơn cũng từ một hạt bụi mà thành. Đại dương mênh mông như Biển Thái Bình cũng do từng giọt nước mà có.
(Xem: 13926)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 16095)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 11735)
Hoan hỷ trong mùa Phật Đản đang về, xin cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Thầy vĩ đại của thế gian, bậc trí tuệ tối thắng không ai bằng.
(Xem: 9035)
Tham lam cũng giống như áng mây mù dày đặc nhưng đôi lúc chúng ta thường gặp ở miền đồi núi, khiến chúng ta không thấy rõ đường đi trước mặt mình.
(Xem: 17648)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 9916)
Thật hạnh phúc có được một bậc thầy như Người: Đức Phật. Người đã đến thế giới này để mở lối đi cho tất cả... Vĩnh Hảo
(Xem: 9334)
Bài Tường thuật khoá tu học Phật pháp của Gia Đình Phật Tử Thiện Trí tại Thụy Sĩ lần thứ 6 năm 2014... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 10676)
Ai mới là bậc thầy, bậc thiện tri thức đúng nghĩa để mọi người có thể nương tựa học hỏi, và tu hành theo đúng Chánh pháp... Thích Hạnh Tuệ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant