Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Luật - Tiếng Nói Từ Nguồn Tâm

04 Tháng Bảy 201414:03(Xem: 11381)
Giới Luật - Tiếng Nói Từ Nguồn Tâm


GIỚI LUẬT

TIẾNG NÓI TỪ NGUỒN TÂM

Tuệ Hải - Thích Quảng Văn

Luật tạng là một trong ba tạng giáo điển của Phật giáo, và giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự duy trì cũng như sự phát triển giáo đoàn Phật giáo trong suốt hơn hai nghìn năm trăm năm qua.

Điều này đã được khẳng định bằng chính lời của Đức Thế Tôn khi Ngài trả lời tôn giả A Nan về câu hỏi rằng : “Sau khi như lai diệt độ chúng con biết nương tựa vào đâu và thờ ai làm thầy ?Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.” Lời phó chúc ấy hẳn là một minh chứng hùng hồn khẳng định tính trọng yếu của giới luật đối với sự tồn vong của đạo pháp.

Bất cứ một đoàn thể hay một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển thì cũng cần phải có nội quy và điều luật riêng của nó. Phật giáo cũng không ngoài quy luật ấy.

Như chúng ta biết, sau khi thành lập giáo đoàn, trong suốt mười hai năm đầu đức Phật chưa chế định giới luật. Các tỳ kheo lúc ấy chỉ tu tập bằng cách truyền dạy trực tiếp từ kim khẩu của Đức Thế Tôn và chủ yếu là tu tập định cộng giới và đạo cộng giới. Bởi vì, trong những năm đầu tiên này, giáo đoàn phần lớn là những bậc căn cơ cao, một lòng tu tập tiến đến giải thoát và đa phần đều đã chứng quả.

Nhưng đến năm thứ mười ba, thì pháp hữu lậu bắt đầu phát sinh trong giáo đoàn. Sự thanh tịnh của tăng không còn được bảo đảm một cách toàn vẹn. Vì vậy, giới luật được chế định trong lúc này là một điều tối cần thiết để bảo hộ cho sự thanh tịnh của tăng đồng thời để bảo đảm cho một hành giả trên lộ trình tu tập đoạn trừ dục lạc tiến đến con đường thoát ly sinh tử.

Giới luật Phật giáo được chế định với ba mục đích chính: thứ nhất là ngăn chặn những điều gì làm ngăn trở con đường thánh đạo. Trong giáo đoàn, nếu có bất cứ một điều gì xảy ra mà nó gây tác hại cho hành giả trên phương diện tu chứng, hay thiền định thì đức Phật đều chế giới.

Việc chế giới này được đức Thế Tôn thực hiện theo tinh thầntuỳ phạm tuỳ chế”. Nghĩa là có một pháp hữu lậu phát sinh gây bất lợi cho chính bản thân hành giả và cho tăng thân thì Phật mới chế giới. Đức Phật không bao giờ chế định những điều gì mà nó chưa hề xảy ra trong cộng đồng các tỷ khiêu. Đức Phật hoàn toàn không đem giới luật để áp đặt cho đệ tử của Ngài.

Điều thứ hai khiến Đức Thế Tôn chế giới chính là những gì làm ảnh hưởng gây sự xáo trộn trong sinh hoạt của Tăng đoàn. Bởi vì, bản thể của tăng là thanh tịnh hoà hợp. Sự thanh tịnh hoà hợp này chính là sức sống là huyết mạch để quyết định sự tồn vong của tăng đoàn. Có duy trì đựơc một tăng đoàn hoà hợp, thanh tịnh thì đó mới xứng đáng là hàng tăng bảo làm chỗ quy ngưỡng vững chắc, tôn kính cho hàng tại gia cư sĩ.

Một giáo đoàn nếu chỉ gồm những tỷ khiêu ham mê dục lạc, đua đòi theo kẻ thế tục, làm những điều không nên làm, không màng đến sự chê bai của thế gian, thì chắc hẳn giáo đoàn đó sẽ không thể tồn tại lâu dài. Điều ấy không những làm mất sự tín tâm của người đời đối với Phật pháp mà còn nhanh chóng đưa Phật giáo đến chỗ hoại diệt. Chính vì vậy, mục đích thứ ba mà Đức Thế Tôn chế định giới luật là tránh sự cơ hiềm của người thế tục. Tránh sự cơ hiềm ấy chính là để bảo đảm cho sự thanh tịnhhoà hợp của tăng đoàn.

Giới luậtĐức Phật chế định ra cho hàng đê tử thọ trìhoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, không hề ép buộctuyệt đối không áp đặt cho một cá nhân nào. Ai thọ trì thì người ấy được lợi ích. Bởi vì công năng của giới luật chính là “phòng phi chỉ ác” , giúp cho hành giả tránh được mọi hố hầm của tội lỗi thẳng tiến đến bờ giải thoát giác ngộ. Trong đó nếu vị nào thọ trì thì đều có được những lợi ích sau đây:

1. Nhiếp thủ ư tăng: Vì kiện toàn tăng già thành chúng thanh tịnh.
2. Linh tăng hoan hỷ : Vì tu hành phạm hạnh nên thiện tâm tăng trưởng khiến được hoan hỷ với nhau.
3. Linh tăng an lạc : Khiến cho tăng được an lạc.
4. Linh vị tín giả tín : Khiến cho người chưa tin được tin.
5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng : Đối những người đã tin khiến cho lòng tin họ thêm tăng trưởng.
6. Nan điều giả linh điều : Người khó điều phục khiến họ được điều phục.
7. Tàm quý giả đức an lạc: Khiến ngưòi biết hổ thẹn được an vui.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu : Đoạn hết phiền nãohiện tại.
9. Đoan vị lai hữu lậu : Đoạn trừ phiền não trong tương lai.
10. Linh chánh pháp cửu trụ : Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

Có được những lợi ích này thông qua việc tu tập giới, chính là do giới luật được thiết lập trên hai nền tảng căn bản. Đó là từ bitrí tuệ. Từ bitrí tuệ chẳng những là nền tảng căn bản của giới luật mà còn là nền tảng căn bản cho toàn bộ tam tạng giáo điển của phật giáo.

Chúng ta biết rằng toàn bộ giới luật Phật giáo được chế định trên thất chi của thập ác nghiệp. Do vì ác pháp phát sinh nên giới luật được chế định để phòng hộ cho chính bản thân hành giả cũng như mang lại sự an bình cho tha nhân. Chẳng hạn như chúng ta giữ giới không sát sinh thì bản thân người trì giới đoạn trừ được sân tâm, tăng trưởng lòng từ bi, tránh được những tội lỗinghiệp quả do nghiệp sát gây ra. Tha nhân cũng như các loài khác đều được an ổn, sống trong sự bình yên không sợ hãi. Bằng trí tuệ cao siêu Đức Phật thấy rõ được giới nào có thể đem lại cho người tu tập sự an lạc, lợi ích và có thể dẫn đến con đường giải thoát tối hậu, đồng thời không trói buộc hay ngăn trở thánh đạo. Không như giới điều của ngoại đạo mê chấp sai lầm, không mang lại lợi ích cho con đường tu tập giác ngộ giải thoát.

Mục đích của giới luật là đem lại lợi ích, an lạc cho mình và người, nên giúp cho người tu tập đạt được an lạc trong từng bước đi. Giới luật được hiểu đúng nghĩa không phải là những giới điều trói buộc, gây phiền phức cho người thọ trì giới, mà giới luật Phật giáo rất linh động uyển chuyển tuỳ theo mỗi hoàn cảnh quốc độ, tuỳ theo từng không gianthời gian mà thay đổi ít nhiều để phù hợpthích nghi. Bằng chứng là trong 250 giới của tỷ khiêu có chia làm năm thiên thất tụ, tiêu biểu cho những mức độ khinh trọng khác nhau. Trong những điều giới đó lại có sự khai mở cho những trường hợp đặc biệt khi phạm phải thì không mắc tội.

Đơn cử như giới “không được đứng tiểu tiện” . Vì hàng cư sĩngoại đạo chê trách rằng đệ tử của sa môn Cồ Đàm đều là những người thô tháo, thiếu lịch nhã, nên Phật cấm không cho đệ tử đứng tiểu tiện. Nhưng khi các tỳ kheo đến một quốc độ khác giáo hoá thì họ cho rằng sa môn Thích tử giống như đàn bà ngồi mà tiểu tiện không có tướng trượng phu. Lúc đó đức Phật lại cho phép các tỷ khiêu đứng tiểu tiện. Những điều như thế được ghi chép rất nhiều trong luật tạng.

Như vậy, ta thấy rằng giới luật Phật giáo đâu phải chỉ là những giới điều cứng nhắc, cố chấp mà rất uyển chuyển, như chính lời của Đức Thế Tôn đã xác minh trong Ngũ Phần Luật: “ Phật dạy : tuy là điều giớ ta chế nhưng phương khác chẳng cho là thanh tịnh đều chẳng nên dùng. Tuy chẳng phải điều ta chế, nhưng phương khác cần phải làm thì chẳng được chẳng làm”. Vậy thì, giới luật trong giáo lý Phật giáo không phải là những điều cố chấp, cứng nhắc mà hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, thiết thực đem lại lợi ích cho mình và tha nhân.

Giới luật từ khởi thuỷ được chế định chung cho tất cả những ai muốn tu tập theo hạnh giải thoát. Bất cứ một đối tượng nào nếu đủ điều kiện thoát ly sự ràng buộc của gia đình gia nhập tăng đoàn đều phải tuân theo. Bởi giới luật là một điều kiện trọng yếu để bảo trì giới thể cho một tỳ kheo như pháp. Nếu không thọ trì giới luật một cách nghiêm mật thì bản thể thanh tịnh của một tỳ kheo khó có thể được bảo toàn.

Chính vì vậy, trách nhiệm học giớitu tập giới là bổn phận của mỗi một tỷ khiêu. Do đó, giới luật không phải là một bộ môn học hay một tông phái riêng biệt mà ai thích thì theo. Vì rằng điều kiện để trở thành một tỷ khiêu như phápbạch tứ yết mathọ trì giới pháp. Vô tác giới thể của một tỷ khiêu được thành tựu là do bạch tứ yết ma, nhưng để giữ gìn được bản thể thanh tịnh đó lại là công năng của giới. Chúng ta không thể trở thành một tỷ khiêu như pháp nếu không nghiêm trì giới luật.

Trên con đường tiến đến đạo quả bồ đề, giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng nếu không muốn nói là yêu tố quyết định. Đó chính là nền tảng là giềng mối cho sự tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Tính trọng yếu của giới luật một lần nữa lại được xác quyết và khẳng định bằng bài kệ:

Dục tu vô thượng bồ đề
Tiên tắc nghiêm trì giới luật
Giới luật nhược bất nghiêm trì
Bồ đề chung bất thành tựu”

Mỗi một tăng sĩ chúng ta hãy tinh tiến nỗ lực tu tập, hành trì giới luật để tự thăng hoa đời sống của chính mình và cũng là để kiện toàn một tăng đoàn thanh tịnh hoà hợp ngõ hầu duy trì mạng mạch Phật pháp.

Tuệ Hải - Thích Quảng Văn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13031)
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
(Xem: 13829)
Loài cỏ bệnh úa tàn thân xác, Đã gầy hao từ gốc rễ cằn khô, Chắc tại nắng, tại mưa, tại bao điều khác, Nằm co ro đợi chết đến giờ
(Xem: 11260)
Trước khi khởi sự tu tập để phát huy lòng từ bi và tình thương, cũng cần nên tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ ấy là gì...
(Xem: 11472)
Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử.
(Xem: 9911)
Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ...
(Xem: 9192)
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng ta nhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
(Xem: 9745)
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
(Xem: 9835)
Một trong bốn chân lýĐức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
(Xem: 13804)
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
(Xem: 9832)
Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi ta soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứvị lai được giải thích cặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
(Xem: 12913)
Vận nước như dây quấn, Trời Nam mở thái bình, Vô vi ở điện các, Chốn chốn dứt đao binh...
(Xem: 9908)
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
(Xem: 10464)
"Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại..."
(Xem: 17246)
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ - Trôi chảy mãi ngày đêm không ngừng nghỉ như thế này ư?
(Xem: 9358)
"Từ lúc này cho đến hết ngày hôm nay, tôi sẽ đưa vào sự thực tập những gì tôi tin tưởng một cách tối đa như tôi có thể"...
(Xem: 10590)
Khi trải qua một cơn bạo bệnh hay tuổi đã xế chiều thì ý niệm về lão-bệnh-tử, tức phải đối mặt với sự chết hiện ra ngày một rõ ràng hơn...
(Xem: 14275)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10017)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp...
(Xem: 11472)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
(Xem: 9295)
Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
(Xem: 11413)
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
(Xem: 10888)
Bài phát biểu của của đô đốc William McRaven, người đứng đầu Bộ chỉ huy Các chiến dịch liên hợp đặc biệt - NAVY SEAL - MỸ
(Xem: 14610)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 10587)
John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”
(Xem: 9406)
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnhnhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
(Xem: 13473)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 9813)
“Người ngu thấy là ngọt, Khi ác chưa chín muồi; Ác nghiệp chín muồi rồi; Người ngu chịu khổ đau”.
(Xem: 14030)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 20339)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 10228)
Ta giao tiếp với bạn bè điều tối kỵ nhất là nói về lợi và đừng bao giờ dùng thủ thuật về lợi để mưu cầu.
(Xem: 8666)
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
(Xem: 9735)
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bó thủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
(Xem: 8797)
... những câu chuyện buồn và bất hạnh bao giờ cũng để lại những vết khắc sâu thẳm trong tim, khó mà nguôi ngoai dễ dàng.
(Xem: 11037)
Chúng ta đến đây với những giọt nước mắt để hết sức mở một con đường, để rẽ sóng mà đi trên biển đời vô tận.
(Xem: 12557)
Phật tử, chúng ta cần phải nhận định rõ ràng, đức Phật không phải là một vị thần hay thượng đế để ban ơn, giáng họa cho bất cứ ai.
(Xem: 28103)
Tôi tin rằng mọi khổ đau đều sinh ra từ ngu muội. Người ta gây ra đau đớn cho người khác, khi ích kỷ theo đuổi hạnh phúc hay thỏa mãn riêng mình...
(Xem: 10651)
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
(Xem: 9816)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đềgiác ngộ thành Phật.
(Xem: 11870)
Nhờ chút công đức phóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
(Xem: 10447)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Đời Đạo.
(Xem: 8906)
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
(Xem: 10560)
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
(Xem: 9006)
Cuộc đời của đức Phật rất vĩ đại, vô vàn những điều hay, chúng ta không tài nào học hết được.
(Xem: 9970)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
(Xem: 9632)
Ngọn núi cao như Hy Mã Lạp Sơn cũng từ một hạt bụi mà thành. Đại dương mênh mông như Biển Thái Bình cũng do từng giọt nước mà có.
(Xem: 14054)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 16214)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 11834)
Hoan hỷ trong mùa Phật Đản đang về, xin cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Thầy vĩ đại của thế gian, bậc trí tuệ tối thắng không ai bằng.
(Xem: 9096)
Tham lam cũng giống như áng mây mù dày đặc nhưng đôi lúc chúng ta thường gặp ở miền đồi núi, khiến chúng ta không thấy rõ đường đi trước mặt mình.
(Xem: 17753)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant