Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa Sen trước gió

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 14996)
Hoa Sen trước gió


Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên. Nó vươn dậy trổ hoa, tỏa hương và làm thành “giới hương bất tử” lan tỏa vào không gian, đi vào trong sử sách. Đó là hoa sen, tên hiệu của một vị thiền sư nổi tiếng thời nhà Nguyễn, thiền sư Liên Hoa.

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa (?- 1823), (hiệu này do vua Minh Mạng phong cho) tên họ là gì? Sinh năm nào và quê quán ở đâu thì không thấy sử sách ghi chép. Chỉ biết thiền sư “viên tịch” trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, “tự thiêu” để bảo toàn phẩm hạnh của người xuất gia?

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành thuộc phái thiền Lâm Tế, đời thứ 35, là đệ tử của thiền sư Minh Vật - Nhất Tri (?- 1786), có lẽ thiền sư xuất gia tu học với thiền sư Minh Vật - Nhất Tri ở chùa Kim Cang (Bình Thảo, Đồng Nai)? Do tư chất thông minh và phẩm hạnh nghiêm mật nên được vua xuống sắc, triệu ra kinh đô Huế để giữ chức Tăng cang chùa Thiên Mụ (1813-1823) và được cử làm pháp sư giảng thuyết Phật pháp trong nội cung của vua Gia Long. Và cũng chính từ đó nghiệp duyên cứ đeo đuổi và gây khá nhiều sự phiền toái cho thiền sư về sau này.

Sử truyện kể lại rằng, thiền sư là người rất hảo tướng, oai nghiêm, đỉnh đạc, thông minh, có tài hùng biện và thuyết giảng Phật pháp rất hay nên được đông đảo quần chúngPhật tử mến mộ tài năng và phẩm hạnh của Người. Tiếng lành của thiền sư đã chinh phục khá đông đảo Phật tử trong nội cung và các quần thần của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung, trong số đệ tử đó có một vị Hoàng cô (cô của vua Minh Mạng) cũng quy y và thọ Bồ-tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên đã có ý định ràng buộc duyên trần cùng với người. Do thiền sư luôn tỉnh giác và là người có trí tuệ nên đã chọn phương pháp “tránh duyên” bằng cách xin về trụ trì chùa Từ Ân ở Gia Định. Lúc này thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725- 1821), trụ trì Sắc Tứ Từ Ân tự đã viên tịch

Thế rồi vào một buổi sáng đẹp trời tháng mười, năm Quý Mùi (1823), thiền sư đang uống trà và đàm đạo cùng với đồ chúng chùa Sắc Tứ Từ Ân, bỗng có tin từ quan trấn thủ Gia Định vào cho hay là Hoàng cô vâng lệnh vua (Minh Mạng) vào Gia Định để cúng dường chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường . (Trước đây chùa có tên Khải Tường, trong thời gian (1789- 1802) Nguyễn Phước Ánh trung hưng ở Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần ngụ tại chùa Từ Ân; các vương phi, công chúa… ngụ tại chùa Khải Tường. Năm 1791, hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm - sau này là vua Minh Mạng- đã chào đời tại ngôi chùa này. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã sắc phong là Quốc Ân Khải Tường tự). Nhận được tin này, thiền sư phần nào cũng lo âu, bởi lẽ “chúng sanh” bản tánh cang cường khó thay đổi (Hoàng cô) không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mặc dù, thiền sư đã biết mình uyên thâm Phật pháp. Nhưng đang sống trong một xã hội quân chủ, quyền sinh sát nằm trong tay một người, đó là thiên tử, cháu của “chúng sanh” cang cường này.

Thiền sư đích thân cầu thỉnh, vấn kế thiền sư Tổ Tông Viên Quang (1758-1827), trụ trì chùa Giác Lâm, Phú Thọ. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên can và bảo rằng: nếu Hòa thượng lánh mặt bất ngờ thì sẽ mang tội với triều đình, làm cho chư Tăng cùng Phật tử xôn xao, nghi ngờ thắc mắc… sẽ gây nhiều dư luận không tốt và có thể gây nhiều biến động rắc rối hơn. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên Hòa thượng hãy định tâm, cố gắng giữ cho tâm được bình thản và sinh hoạt tự nhiên như mọi ngày, cầu nguyện chư Phật hộ trì, giúp cho sáng suốt để giải quyết công việc hợp tình và hợp lý.

Thiền sư Liên hoa về chùa chuẩn bị đón tiếp Hoàng cô. Lễ tiếp đóncúng dường diễn ra tốt đẹpviên mãn. Hoàng cô ở lại chùa Sắc Tứ Từ Ân, mỗi sáng thiền sư Liên Hoa phải tiếp kiến và hầu chuyện bình thường. Nhưng đến sáng thứ ba không biết có sự việc đặc biệt khác thường gì không, mà đến sáng sớm ngày ấy Hoàng cô ở chùa, mà không thấy thiền sư đến tiếp kiến như mọi hôm. Hỏi Tăng chúng thì không ai hay biết, chỉ có Sa di Mật Dĩnh là thị giả của thiền sư biết nhưng không dám hé môi.

Do tâm bịnh nên sức khỏe Hoàng cô ngày một sa sút trầm trọng. Sợ nguy hại cho bổn tự nên Sa di Mật Dĩnh đành phải nói sự thật. Thiền sư đã lên chùa Đại GiácCù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất hai năm. Được tin này, Hoàng cô thông báo với quan trấn Gia Định là mình lên chùa Đại Giác để cúng dường. Quan tổng trấn cử phái đoàn hộ tống Hoàng cô lên chùa Đại Giác. Sau khi đến chùa dâng lễ cúng dường và nhờ thị giả Mật Dĩnh đưa đến tịnh thất của thiền sư Liên Hoa. Hoàng cô với tâm thành kính đảnh lễ trước tịnh thất và xin gặp mặt thiền sư lần cuối trước khi hồi kinh. Thiền sư không trả lời. Hoàng cô suy nghĩ kế khác, sau đó quỳ trước cửa thất thưa rằng: “ nếu Hoà thượng không tiện ra tiếp, xin Hoà thuợng cho con nhìn thấy bàn tay của Hòa thượng, đệ tử cũng hân hoan mà ra về”. Im lặng vài phút thiền sư đưa bàn tay ra cửa nhỏ nơi đưa thức ăn vào thất, Hoàng cô vội ôm bàn tay hôn một cách trìu mến, rồi sụp lạy xuống và khóc sướt mướt. Nhưng sau đó bà cho biết là ở lại chùa Đại Giác nghỉ ngơi vài ngày trước khi hồi kinh.

Đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện:

THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.

Qua bài kệ trên chúng ta thấy rằng, thiền sư Liên Hoa là người rất uyên thâm Phật pháp, biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh. Người đã dùng ngọn lửa để thức tỉnhgiáo hóa Hoàng cô. Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp giữa hai người, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Tuy nhiên qua câu chuyện này, hàng hậu côn chúng ta cũng rút ra được bài học vô cùng quý báu. Một người vừa hảo tướng vừa tài năng đôi khi cũng dễ gặp những chướng duyên trên bước đường tu học. Điều này đã được báo trước và người nhận ra mối nguy hại ban đầu cũng như tiên đoán chính xác sự việc đó là thiền sư Phật Ý - Linh Nhạc. Ngài tiên đoán “ sư Liễu Đạt (Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa) không tránh khỏi mối dây ràng buộc của nghiệp trần duyên vì thiền sư Liễu Đạttướng hảo, có tài thuyết giảng và khoa ăn nói, lại giảng giải trong nội cung, gần nhiều giới nữ sắc quyền quý”. Và điều đó đã ứng nghiệm như thật qua câu chuyện. Các vị thiền sư xưa kia, bằng công phu tu tập, năng lực thiền định đã nhận ra tương lai của một người nào đó đối diện với mình, phần còn lại chỉ do họ có nỗ lực để chuyển hóagiải quyết sự việc đó đúng theo tinh thần nhân quả của nhiều đời, nhiều kiếp hay không?

Cuộc đờisự nghiệp của một vị thiền sư tài năng, đạo hạnh nổi danh một thời như thế, nhưng phải nhờ ngọn lửa để giữ gìn giới thân huệ mạng là điều chúng ta ngày nay phải cần suy ngẫm. Có một vài người cho rằng cách giải quyết vấn đề như thế là tiêu cực, không lối thoát, chưa trọn vẹn với tinh thần chánh pháp… Phải chăng những nhận xét như vậy là quá gay gắt với tiền nhân?! Người viết cho rằng, khi mình đã là “thần tượng” của quần chúng Phật tử, nhất là thần tượng của giới trí thức quan lại triều đình thì việc “tự thiêu” không chỉ bảo tồn giới thân huệ mạng cho riêng mình mà còn là việc bảo vệ danh dự cho hàng vạn Tăng lữ và hàng triệu tín đồ đã một thời kính trọng và ngưỡng mộ tài đức của mình. Việc làm ấy cũng đủ để hậu thế đảnh lễ tán thán và noi gương theo công hạnh của Người.

Thời đức Phật còn tại thế, Ngài đã thuyết tam bất năng (bất năng miễn định nghiệp, bất năng độ vô duyên, bất năng tận sanh giới). Chính vì tam bất năng này mà hàng hậu học hôm nay hiểu được vì sao thiền sư Liên Hoa đã dùng ngọn lủa “thiêu thân” để bảo toàn phẩm hạnh của mình. 

Trước phong ba bão táp mọi vật có thể bị hủy diệt và cuốn trôi theo chiều gió, chỉ hương người đức hạnh mới trụ lại được và bay ngược lại chiều gió mà thôi. Hương của hoa sen thoang thoảng đâu đây, hình ảnh thiền sư Liên Hoa lại hiện về trong tâm trí của những người đang đi trên lộ trình giải thoát. Chấp tay búp sen con nhớ lại hình ảnh Ngài, cúi đầu đảnh lễ cành hoa sen trước gió.☸

Nguồn: Tập San Pháp Luân 18


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8170)
Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.
(Xem: 12010)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10367)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8852)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10323)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10899)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12018)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8683)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9291)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10020)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11311)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9827)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9360)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10078)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10112)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9284)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13294)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10183)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10487)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10940)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9116)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10287)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10234)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9329)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11031)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15064)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11790)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10136)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12662)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10902)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10408)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10771)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10681)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10555)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9995)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9307)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9354)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11360)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9694)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13076)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12625)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9169)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9565)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9600)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9631)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9190)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8988)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10389)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8600)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8301)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant