Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vận Nước Một Thời Qua Văn Học Sử Phật Giáo

21 Tháng Sáu 201408:35(Xem: 12913)
Vận Nước Một Thời Qua Văn Học Sử Phật Giáo

Vận Nước Một Thời Qua Văn Học Sử Phật Giáo
Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Sau khi đại phá quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng năm 938 thì năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, chấm dứt 1000 năm lệ thuộc, đem lại nền độc lập tự chủ cho dân tộc. Ông ở ngôi được 6 năm, đến năm 949 thì mất. Và sau đó là loạn lạc kéo dài, đến năm 965 thì nhà Ngô sụp đổ. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân, lập nên nhà Đinh – Đinh Tiên Hoàng - đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Năm 971, Đinh Tiên Hoàng nghe tiếng nhà sư Ngô Chân Lưu làu thông kinh giáo, học rộng biết nhiều nên vời về triều. Sau cuộc đàm đạo, vua thích ý, phong nhà sư làm Tăng Thống rồi ban hiệu là Khuông Việt. Do hiệu là Khuông Việt, có nghĩa là “khuông phò nước Việt”, và chức Tăng Thống thì giống như “thầy vua”, còn lớn hơn các vị khai quốc công thần như Định Quốc Công Nguyễn Bặc, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn - nhiều người nghĩ thầm, chắc nhà vua có ý hàm ân nhà Ngô đã đuổi giặc Nam Hán, lập nên một trang sử mới. Điều ấy chỉ đúng một nửa, nửa kia là chuyện “Khuông phò nước Đại Cồ Việt” vậy.

Nhà Đinh tồn tại được 12 năm thì sinh biến loạn (Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám hại). Trong lúc triều đình đang rối ren thì đầu xuân năm 981, Hầu Nhân Bảo nhà Tống mang quân sang xâm lược. Do thái tử còn nhỏ nên bá quan tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua, hiệu là Đại Hành hoàng đế, cùng triều đình bàn kế chống giặc.

Theo “Thiền Uyển tập anh”, ta biết thêm, đại ý: Tháng 4 năm 981, khi nghe quân Bảo đóng tại Cương Giáp, Lạng Sơn, vua rất lo lắng. Nghe danh thiền sư Vạn Hạnh biết việc quá khứ, vị lai, nói câu nào ra đều là sấm ngôn, sấm ngữ nên vua thỉnh mời sư đến triều, cốt ý đem chuyện chiến tranh, thắng hay bại ra hỏi. Sư không vào chầu, chỉ gởi đến vua lời tiên tri quyết chắc: “Trong 3, 7 ngày tất giặc phải lui”. Sau, quả nhiên như thế! Quân của Hầu Nhân Bảo bị đánh tan, chết hơn nửa khi vừa kéo quân đến cửa sông Cà Lồ; y thì chết trong đám loạn quân, số tàn quân còn lại trốn chạy về phương Bắc.

Đầu năm 982, Lê Đại Hành thiết lập kỷ cương, ổn định triều chính; một niềm kính trọng thiền sư Khuông Việt nên phàm việc quân, việc nước, vua đều nhờ sư cố vấn. Không những thế, khi nghe danh thiền sư Pháp Thuận học rộng, thơ hay, rõ việc đương thời nên vua cung thỉnh vào triều để giúp ông trù định sách lược. Mọi văn thư ngoại giao, chiếu chỉ, sắc phong... đều nhờ cậy tài bác học của sư đảm nhiệm. Vua tôn kính vô cùng, tránh tên Pháp Thuận, chỉ gọi ngài là Đỗ Pháp Sư!

Thắng Tống mà triều đình Đại Cồ Việt không kiêu! Khi triều chính tạm thời yên ổn, Lê Đại Hành cho sứ giả sang Tống cống nạp lễ phẩm xin được bang giao hòa hiếu. Tống thuận. Tuy nhiên, khi sứ Tống đến Hoa Lư, yêu cầu vua quỳ để tiếp nhận sắc chỉ của vua Tống phong cho làm Giao Chỉ quận vương - Đại Hành viện cớ đau chân, không quỳ, sứ Tống chẳng bắt bẻ được. Để tránh việc tiếp sứ giả phiền hàtốn kém, Đại Hành còn đề nghị nước Tống, lần sau, chỉ cần sứ thần đến đầu địa giới, báo tin thì Hoa Lư sẽ cử người đi đón tiếp. Tống cũng phải khứng chịu.

Vậy là sau năm 983, sứ giả Tống qua lại nhiều lần, lúc thì trấn an, xoa dịu, lúc thì hăm dọa làm khó dễ đủ điều mà chưa lần nào khuất phục hoặc qua mặt được nhà vua – vì triều đình có sẵn ba bậc đại trí thức thiền sư tham mưu, cố vấn.

Năm 987, người Tống là Lý Giác sang sứ, vua nhờ Đỗ Pháp Sư cải trang làm quan coi bến (cái bến có chiếc đò ngang được sắp xếp mà sứ giả phải đi qua) để theo dõi hành động của y, đồng thời, biết ngài là người có khả năng trí thức, văn hóa, thừa ngôn ngữ giao tiếp, ứng đối, khỏi sợ bị bẻ mặt trước sứ giả nhà Tống.

Sư làm người chèo đò chở Lý Giác.

Thấy chú chèo đò tuy ăn mặc lam lũ nhưng dáng dấp và phong thái rất nho nhã, không phải là kẻ tầm thường, Giác biết ngay đây là sự sắp đặt tinh tế của triều đình Đại Cồ Việt!

Đò ngang qua nửa sông, gặp khi có hai con ngỗng trắng nhẹ nhàng bơi trên mặt nước, đẹp quá, hữu tình quá, Giác muốn thử trình độ văn học của chú chèo đò, miệng tủm tỉm cười, sau đó ngâm chơi rằng:

- Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha.

(Song song ngỗng một đôi

Ngước mặt ngó chân trời)

Nghe câu thơ, do học rộng biết nhiều, thiền sư thấy Lý Giác đã “bẻ đôi” , lấy nửa đầu trong bài thơ “vịnh nga” của thần đồng Lạc Tân Vương sống trước đó 300 năm, làm lúc 10 tuổi mà ngày nay chúng ta còn tìm thấy trong “Toàn Đường thi tập” (1); và nguyên văn của nó như sau:

- Nga nga nga

Khúc hạng hướng thiên ca

Bạch mao phù lục thủy

Hồng chưởng bát thanh ba”.

(Nga nga nga

Ngưỡng cổ kêu ngó trời

Lông trắng trôi nước biếc

Sóng xanh chân hồng bơi).

suy nghĩ thật nhanh: Chà, chà, “nga nga nga”biến thành “nga nga lưỡng nga nga” bằng hình ảnh hai con ngỗng song song bơi trên mặt nước, trước mắt, quả là tài tình. Còn “khúc hạng hướng thiên ca” được “thôi, xao” thành ngưỡng diện hướng thiên nha” lại càng chuẩn và hay hơn nhiều! Tên sứ này giỏi! Vậy thì ta cũng cải biên mấy chữ của Lạc Tân Vương để chắp nối thành một bài ngũ ngôn tứ tuyệt cho y biết tay trình độ học thức của dân đen xứ “Nam man”!

Rồi vừa chèo đò, vừa cười thầm trong bụng, sư ung dung ngâm tiếp:

- Bạch mao phô lục thủy

 Hồng trạo bãi thanh ba.

Vậy là ai cũng tự ý thay đổi chữ này, chữ kia bài thơ cũ của Lạc Tân Vương, cuối cùng thành:

“Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha.

Bạch mao phô lục thủy,

Hồng trạo bãi thanh ba”.

(Song song ngỗng một đôi,

Ngửa mặt ngó lên trời.

Lông trắng phơi dòng biếc,

Sóng xanh chân hồng bơi). (2)

(T.T Mật Thể dịch)

Cuộc ứng đối thú vị này, có người đã bình như sau: “Thâm ý của Lý sứ thần điễn nhã và thâm trầm đến vậy mà vẫn bị chú chèo đò ‘bắt bài’ bằng tinh thần chẳng thua kém trí thứcvăn hóa vậy”.

Có lẽ nghe xong, Lý Giác rất kinh dị cái tài thơ cùng kiến thức bác lãm cổ văn của chú chèo đò – nên sau này, Lê Quý Đôn (3) đã tán dương thiền sư Pháp Thuận bằng 8 chữ: “Thuận sư thi cú, Tống sứ kinh dị” (Thi cú của thiền sư Pháp Thuận làm cho sứ Tống kinh dị).

Còn theo “Đại việt sử ký toàn thư” thì sau khi Đỗ Pháp Sư tiếp vần nối hai câu để thành bài thơ tứ tuyệt như trên, Giác rất khâm phục, về tới sứ quán, y làm một bài thơ tặng sư Pháp Thuận - tức là chú chèo đò - với ý nghĩa rất trân trọng tình hữu nghị giữa hai nước:

- Hạnh ngộ minh thời tán thịnh du

Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu

Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

(May gặp thời minh giúp việc vua

Một mình hai đợt sứ Giao Châu

Đông Đô đôi biệt dòng lưu luyến

Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa

Ngựa đạp mây mù qua sóng đá

Xe rời núi biếc thả buồm đưa

Ngoài trời còn có trời soi rạng

Sóng lặng khe đầm ngắm nguyệt thu).

(Lê Mạnh Thát dịch)

Thiền sư Pháp Thuận mang bài thơ của Lý Giác cho nhà vua xem; nhà vua lại hỏi thiền sư Khuông Việt là Lý Giác có ý gì trong bài thơ ấy. Thiền sư Khuông Việt nói:

“Thơ này nó tôn bệ hạ không khác gì vua Tống". Thật ra, còn hơn cả vua Tống, vì “ngoài trời còn có trời soi rạng” kia mà! Vua khen ý thơ, tặng cho sứ giả rất hậu. Khi Giác từ biệt ra về, vua ngõ ý nhờ Khuông Việt làm bài hát (từ khúc) để tiễn đưa nữa:

- Tường quang phong hảo cẩm phàm trương

Thần tiên phục đế hương

Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương

Cửu thiên quy lộ trường

Nhân tình thắm thiết đối ly trường

Phan luyến sứ tinh lang

Nguyện tương thâm ý vị Nam cương

Phân minh báo ngã hoàng.

(Gió hòa phấp phới cánh buồm hoa

Thần tiên trở lại nhà

Đường muôn nghìn dặm trải phong ba

Cửa trời nhắm đường xa

Một chén quan hà dạ thiết tha

Thương nhớ biết bao là

Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà

Bày tỏ với vua ta).

(T.T Mật Thể dịch)

Người ta nói rằng đây là bài từ khúc có tên là “Vương lang quy” hay “Ngọc lang quy” – nhưng theo GS. Lê Mạnh Thát thì đây là bài ca từ được hát theo điệu nhạc có tên là "Nguyễn lang quy", chỉ sự từ biệt Đào Nguyên để trở về trần của Lưu Thần và Nguyễn Triệu. Xét theo thể tài, âm luật và nhạc điệu thì nó hoàn toàn giống với “Nguyễn lang quy” rất thịnh hành vào thời Đường-Tống.

Và đấy cũng là “thâm ý” mà một nhà sư Đại Cồ Việt ở nơi miền Nam bang biên địa xa xôi làm tặng sứ giả nhà Tống. Sự ứng xử với tác phong văn hóa ấy chắc hẳn phải làm cho "chính quốc" nể phục, không dám coi thường.

Âm luật của loại từ khúc “Nguyễn lang quy” này có 8 câu, 4 vế, mỗi vế 2 câu, câu trước 7 chữ, câu sau 5 chữ; và cuối luật bằng là vần bằng, nếu khôngkiến văn và không nghiên cứu sâu rộng thì không thể biết được, làm được. Đây là bài từ xưa nhất hiện còn, không những của nước Nam ta mà là của Trung Quốc nữa. Nó là bài ca từ quí nhất, cổ xưa nhất trong lịch sử ngoại giao và lịch sử văn học dân tộc.

Nhà bác học Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” khi đọc được bài từ khúc này trong “Thiền Uyển Tập Anh” đã không hết lời khen ngợi lời lẽ của nó: "Nõn nà tưởng có thể vốc được”.đánh giá nó bằng hai câu thơ:

“Chân Lưu tài từ

Trứ xưng nhất thời”.

(Từ điệu tài hoa của (Ngô) Chân Lưu quả thậttrứ danh một thời).

Còn Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương” thì đánh giá với đại ý: “Khúc hát hay cũng đủ chứng tỏ là nước ta có nhân tài, quốc thể được tôn trọng, làm cho Bắc phương phải thán phục”.

Một thiền sư đoán việc như thần dù được mời nhưng không đến triều vì biết là chưa đúng thời (4). Một thiền sư giả trang làm lái đò, chỉ qua vài câu thơ đã làm cho sứ Tống phải thán phục, không dám coi thường con dân Đại Cồ Việt. Một vị thiền sư khác, làm khúc ca từ - chỉ thịnh hành ở thời Đường-Tống bên Tàu, để tiễn đưa sứ giả “bổn quốc” với tình cảm vừa thắm thiết vừa cao nhã. Thật ra, vua tôi Nam bang, chỉ mong sứ giả về tâu lại cho vua Tống rõ tình cảm trân trọng ấy và chỉ mong sự hòa hiếu cho muôn dân hai nước đỡ khổ vì chiến tranh. Đây là thái độ nhu thuận khôn ngoan của vua tôi Nam bang – vốn biết mình nước nhỏ, sức yếu - mặc dầu vừa đánh thắng quân Tống.

Tuy nhiên, sau khi sứ giả về rồi, có lẽ thấy rõ dã tâm phản trắc khó lường bao đời của giặc Băc; biết rõ sự khôn khéo và ẩn nhẫn ngoại giao của mình chỉ là kế nhất thời, kế dài lâu là phải có nội lực tự cường để an dân, giữ nước. Vì nghĩ vậy nên nhà vua hỏi thiền sư Pháp Thuận về “vận nước” – vì nhà sư là bậc “bác học công thi, phụ vương tá chi tài, minh đương thế chi vụ” (Một nhà bác học, giỏi về nghệ thuật thi ca, có tài năng phụ tá nhà vua trong việc chính trị và thông hiểu về tình hình thực tại của đất nước).

Với cái nhìn sắc bén của một vị thiền sư lỗi lạc, lại“minh đương thế chi vụ”, Pháp Thuận đã khai sáng cho nhà vua một “nguyên lý chính trị” : Lấy đạo đức bản thân làm nền tảng, đại đoàn kết dân tộc là “nội lực” quyết định đem đến sự thái bình cho muôn dân Đại Cồ Việt. Nên khi được hỏi, như đang có sẵn trong đầu, sư đọc ngay bài thơ tứ tuyệt:

Nguyên bản Hán Văn:

國祚

國祚如藤絡,

南天裏太平。

無為居殿閣,

處處息刀兵。

Quốc tộ

- Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiênthái bình.

Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

(Vận nước

Vận nước như dây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi ở điện các

Chốn chốn dứt đao binh).

“Vận nước như dây mây quấn” nói đến tình hình rối ren muôn đời của việc nước, việc nhà, việc trị, việc an... như dây leo quấn chằng chịt không tìm ra đầu mối – nhưng cũng vừa gợi ý sự đoàn kết của vua quan và muôn dân trăm họ bởi hình ảnh một bó dây mây bền chắc kết lại trước hiểm họa bao đời từ phương Bắc.

"Vô vi ở điện các". Chữ "vô vi" này rõ ràng không còn mang ngữ nghĩa "vô vi" của Lão Tử mà cũng không hoàn toànthuật ngữ Phật học với ý nghĩa rỗng rang, giải thoát. "Vô vi" ở đây đã trở thành nội hàm của một khái niệm tổng hợp cả ba nền tư tưởng Nho-Phật-Lão. Nhà sư khuyên vua và triều đình phải sống đời trung chính, đạo đức hiền thiện, thuận theo lẽ tự nhiên, đừng nhũng nhiễu mọi người, hao phí tài lực của lê dân để làm gương soi cho bá tánh. Khi triều đình sống được như vậy và nhân dân một lòng đoàn kết thì xứ xứ sẽ hết đao binh và trời Nam sẽ thái bình thịnh trị.

Chỉ với mấy câu kệ thơ mà Pháp Thuận đã để lại cho nền văn học nước nhà một tác phẩm mang nhiều giá trị tư tưởng học thuật, tư tưởng chính trị minh triết cùng thái độ hành xử của tu sĩ: Vừa không đánh mất phẩm cách của sa-môn, vừa giúp được vua, giúp được nước.

Nói tóm lại, do sử liệu ít ỏi, tuy văn học sử chỉ còn để lại mấy bài thơ của các vị thiền sư, nhưng ta cũng có thể hình dung được diện mạo văn học một thời. Đinh, Lê mới chỉ vừa lập quốc, nhưng đâu phải vì vậyvăn hóa, văn phong, tư tưởng không nội hàm một sinh lực với giá trị tâm linh lâu đời.

Để kết luận.

“Thiền uyển tập anh” còn cho biết đại lược rằng: “Thời Lê Đại Hành chống Tống, vua thường mời đại sư Khuông ViệtPháp Thuận cùng dự bàn chính sự, đến khi thái bình, vua ban khen, các sư không nhận, lui về núi ở ẩn”.

Ôi, đẹp thay! Hùng tráng thay! Mà cũng thơ mộng thay là bài học về “vận nước một thời” cùng phong cách sống tao nhã và cao vời của các vị thiền sư - đáng cho thời đại và người học Phật ngày nay phải đăm chiêu và suy gẫm!

Riêng tôi, không biết tại sao, lại rưng rưng nước mắt!


MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

Ghi chú:

(1) 2, quyển 79, tờ 864 trong “Nghiên cứu Thiền uyển tập anh”, trang 516 - của GS. Lê Mạnh Thát.

(2) “Việt Nam Phật giáo sử lược” – Thích Mật Thể.

(3) Trong “Kiến văn tiểu lục” , trang 493.

(4) Vạn Hạnh chỉ đến triều cuối Lê, đầu Lý và phò nhà Lý.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12899)
Những cơn sóng lăn tăn đủ kỳ cọ những vết sương gió trên da thịt con trôi đi và còn lại đứa con của mẹ dại khờ. Con thả lỏng và nằm nổi trên mặt nước xanh...
(Xem: 12309)
Có cái gì đó nơi nụ cười, cứ như ông Phật của 40 năm trước bằng cách nào đó đã quay lại với ông. Ông thấy thích pho tượng, thích như chưa bao giờ thích đến thế.
(Xem: 11572)
Cuộc sống này quý báu vô vàn, Đức Phật dạy thế cho nên tôi không bao giờ có ý nghĩ hủy hoại cuộc sống. Tôi yêu mến cuộc sống của tôi và của mọi người.
(Xem: 13941)
Việc du hành đến Ấn Độ tu tập đã giúp cho Job chuyển sang Phật Giáo. Thầy Kobun Chino, một nhà sư đã chủ trì hôn lễ của ông với bà Laurene Powell...
(Xem: 15803)
Lâu rồi mới thấy tâm hồn mình thanh thản đến thế. Đứng dưới cội cây vàng nhìn lá rơi ngập phố, chợt nghe mơ màng cả một khoảng trời...
(Xem: 14095)
Ngắm chiếc lá thu chín đang lìa cành rơi rụng ta hiểu được sự hoàn tất của một chu trình chuyển hóa để thăng hoa.
(Xem: 16150)
Thuốc giải thù hận ở trong trái tim, cội nguồn của bạo động, là bao dung. Bao dung là một đạo đức quan trọng của bồ tát [những anh hùng và anh thư giác ngộ]...
(Xem: 12387)
Sáng nay, Sư Cô định lên đỉnh núi tìm hái một ít lá cây đem về làm thuốc cho bà con trong làng.
(Xem: 13490)
Là loài hoa sanh trưởng nơi vùng nhiệt đới, nhờ kết hợp nắng mưa vào hạ mà trổ nhụy ra hoa. Do đó sắc hoa sen luôn tươi nhuần, hương hoa thì thanh nhã dịu dàng mà lan tỏa.
(Xem: 11950)
Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện.
(Xem: 11027)
Một vùng đất bán sơn địa khô cằn sỏi đá, mùa nắng thường kéo dài. Cây cối gần như khô kiệt. Nhưng cây bồ đề vẫn xanh mát, gần như tách biệt hẳn với cảnh vật xung quanh.
(Xem: 11279)
Mới đầu hạ mà sen đã nở rộ. Nhìn những cánh sen trắng hồng tươi tắn vươn lên từ trong đầm nước, cũng làm dịu bớt cái nắng nóng mà tôi mang tận từ thành phố về đây.
(Xem: 11470)
Bạn sẽ quên được những nhọc nhằn, cay đắng hoặc bất lực của cuộc đời khi bạn hiểu được rằng đời này vốn ảo ảnh, vô thường.
(Xem: 12135)
Rong ruổi trên những nẻo đường quê tháng 8, chợt tiếng trống múa lân trong ngõ nhà ai rộn lên từng hồi làm lòng tôi chợt thấy xuyến xao bao nỗi niềm nhớ...
(Xem: 12267)
Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa. Ừ! ai cũng hay nhìn cuộc đời qua lăng kính của mình. Chuyện anh Cuội theo đó sinh nhiều ngõ ngách nhiêu khê...
(Xem: 11905)
Đây là một câu chuyện thật về sự hi sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàngNhật Bản. Sau khi trận động đất đã qua đi...
(Xem: 11498)
Mười năm hay bao nhiêu năm đi nữa, thì ánh đạo từ bi và niềm tin của em đối với chị vẫn nguyên vẹn như cái thuở chúng ta cùng hiện hữu trên cõi đời này.
(Xem: 11933)
Dư âm về người là đời sống thanh cao thoát tục, là hạnh nguyên vị tha, là quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Sư ra đi mang theo nhiều tâm nguyện còn dang dở.
(Xem: 12039)
Sáu mùa xuân trôi qua kể từ ngày chị rời xa trần thế, tôi vẫn không ngờ mình đã xa chị trong ngần ấy thời gian. Một người chị mà tôi luôn gắn bó trong suốt quãng đời tuổi thơ.
(Xem: 13447)
Từ cuối tháng 7 âm lịch, hoa ngô đồng bắt đầu rộ đỏ trên toàn đảo, làm cho Cù Lao Chàm thêm một vẻ đẹp vừa sinh động lại vườn huyền hoặc.
(Xem: 12329)
Biết cảm thông và chia sẻ niềm an vui với huynh đệ, lắng nghe và chấp nhận yếu kém của người khác để cùng nhau tinh tiến tu học, đó là những hạt giống thiện lành.
(Xem: 11801)
Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo...
(Xem: 11491)
Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph.
(Xem: 10841)
Mỗi chuyến đi là mỗi tầm nhìn được mở rộng. Mỗi chuyến đi giúp chị nhận thức rõ hơn bức tranh muôn màu của kiếp sống nhân sinh.. Chị có được những giây phút tĩnh lặng...
(Xem: 10155)
Bờ biển buổi sáng thật yên tĩnh. Tôi đi lần ra cồn cát ngay phía trước cổng chùa. Nước rút làm cho bờ cát thoai thoải trải dài một màu trắng bạc lấp lánh.
(Xem: 10621)
Dù gì thì đời sống tu hành của thầy cũng thật giản dị. Nơi thầy ở vẫn là mái am tranh đơn sơ, ăn uống thì đạm bạc, áo vải sờn vai mà vẫn thong dong tự tại với tháng ngày.
(Xem: 10928)
Quanh bờ suối, rải rác nhiều tảng đá lớn nhỏ với đủ hình thù tạo dáng lạ mắt gợi lên một phong cảnh trầm mặc u nhàn. Tuấn nhìn thấy màu y vàng của một vị sư...
(Xem: 10380)
Thời gian thấm thoắt qua nhanh, cuối cùng Ông tìm đến khu rừng Tuyết này để tịnh tu. Đạo mầu chưa chứng, nhưng Ông cũng tự tìm thấy niềm vui trong pháp thiền định.
(Xem: 11394)
Ấn tượng nhất vẫn là tượng Phật lộ thiên cao gần ba mươi mét, uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời gió núi. Tượng Phật đúc xi măng, trong ruột đổ đá xanh...
(Xem: 9971)
Ánh nắng chiều xuyên qua cửa sổ làm thầy thức giấc. Bước ra sân, thầy ngạc nhiên nhận ra cây cỏ trong vườn dịu dàng lan tỏa một sắc xuân.
(Xem: 10959)
Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật.
(Xem: 11233)
Mấy năm sau này mẹ chị thích lui về sống cuộc đời tu niệm tại gia. Thế là chị cho xây một am thất ngay trong khu vườn cây xanh tĩnh lặng ở ngoại ô...
(Xem: 12673)
Thầy luôn ở bên cạnh, đôi mắt hiền từ nhìn con đầy tình thương ấm áp của người cha, miệng mỉm cười trao truyền sự an lạc từ tâm hồn tới tâm hồn.
(Xem: 13025)
Kính bạch thầy Quan Thế Âm. Thầy là vị Bồ tát có lòng đại từ, đại bi nên thầy có thể nghe mọi nỗi khổ đau của không chỉ nhân thế mà cả vạn loại chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 12007)
Kính bạch thầy Di Lặc. Thầy có biết không, con đã ứng dụng thực hành giáo lý mà thầy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy. Mỗi ngày con phải biết mỉm cười...
(Xem: 11748)
Nếu hành Bồ tát đạo thì bạn sẽ kiến tạo được bằng an cho mình - một trong vô vàn chúng sinh trong lục đạo. Khi ấy bạn sẽ có vốn liếng bằng an để hiến tặng cho người.
(Xem: 11485)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ biểu hiện khi tâm ta bị màn vô minh che lấp, bị chi phối bởi sự điều động của bản ngã tham sân si.
(Xem: 10238)
Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử chân chính...
(Xem: 11952)
Hãy im lặng để nhìn thì tôi tin bạn sẽ “ngộ” ra nhiều thông điệp sống mà cuộc đời trao ban cho mình.
(Xem: 11020)
Trời ở đây đã bắt đầu vào thu. Mỗi sớm mai khi mở cửa tôi vẫn được nhìn thấy mặt trời dần lên sau những cụm mây hồng.
(Xem: 10982)
Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.
(Xem: 12720)
Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi.
(Xem: 16425)
Chùa Thiện Minh, nơi tổ chức Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ 5, do Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt là trưởng ban... Thích Nguyên Siêu
(Xem: 12222)
Ðạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh...
(Xem: 11965)
Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây.
(Xem: 10524)
Sư vốn con nhà trưởng giả ở Kinh Thành. Xuất gia từ nhỏ. Cốt cách tài hoa, nên càng lớn càng tự thị. Sở học rộng rãi.
(Xem: 10643)
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
(Xem: 10573)
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó.
(Xem: 11780)
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
(Xem: 12333)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant