Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái tôi và minh triết về "cái tôi"

22 Tháng Mười Một 201419:16(Xem: 12278)
Cái tôi và minh triết về "cái tôi"
Cái tôi và minh triết về "cái tôi"



Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phátheo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.

DIỆT TRỪ CĂN BỆNH CHẤP NGÃ
Một nhà sư trụ trì ngôi chùa nọ thường có những biểu hiện nóng nảy, kẹo bẩn. Nhưng vốn là người từng lập chí tu hành vững chãi, nên sư luôn luôn tự quán xét biết mình mang đại bệnh “chấp ngã” rất nặng và quyết tâm trừ bò cho kỳ được. Hôm nọ, sư gọi chú tiểu duy nhất trong chùa tới bảo:

- Từ nay thầy nhập thất một thời hạn khoảng 3 năm để tu tập, cốt để diệt trừ cái bệnh Ngã Chấp của thầy. Con chăm sóc ngày 2 bữa cho thầy và ráng chăm nom mọi việc để thầy yên tâm ẩn tu nhé?
Người đệ tử cuối đầu lãnh ý. Sau 3 năm miệt mài tu tập, hôm nọ sư vô cùng hân hoan mở cánh cửa thất, cười:
- Ta thành công rồi. Sau thời gian tu tập vô cùng miên mật, bây giờ ta đã dứt trừ được cái Ngã Chấp rồi. Bất cứ điều gì xảy ra cũng không còn làm ta động tâm! Con hãy mừng cho thầy!

Chú tiểu bỗng dưng trề môi ra dài thượt:
- Thầy mà trừ đặng Ngã Chấp thì cũng như… con chó mà chê phân người vậy!
Sư đỏ mặt tía tai, vung nắm đấm vào ngay mặt chú tiểu:
- Thằng này hỗn, ta cho mày biết tay!
Chú tiểu hét lớn:
- Con mới thử thách chút thôi, chưa chi mà thây đã nổi cái Ngã lên rồi!
Ngay khi ấy sư ông cũng vừa tỉnh ngộ, nhưng chẳng còn kịp nữa!

Một thiền sư bình luận: - Chúng ta chớ cười chê vị sư ấy. chỉ tiếc rằng ông ấy chưa hoàn toàn thành công như ý muốn, thật ra tự biết mình Chấp Ngã, và lập phương án tu tập để trừ khử, thì sư cũng xứng đáng là một vị chân tu rồi, nhưng đâu dễ một sáng một chiều mà thanh toán xong cái món Chấp Ngã đã từng đeo theo con người suốt hàng ức triệu kiếp nay?

Quả thật khi chúng ta thấu đạt bệnh căn của mình tức là tự hiểu biết mình. Mà trên thế gian này, có điều chi quan trọng hơn việc Tự Hiểu Mình? Triết gia Krishnamurti đã nói: “Tự hiểu biết lấy mình, chính là bước đầu của trí tuệ”.Cho nên câu hỏi : “Tôi là ai?” luôn luôn là vấn nạn khẩn cấp và trọng yếu nhất cho những người thao thức tâm linh đang mày mò tìm kiếm một cái gì đó. Cho đến khi họ nhận ra rằng: “Cái Tôi của bạn là Cái Ấy” (Your Self is That, hay theo Phạn ngữ Tat vam asi) thì con đường thong dong dường như đã xuất hiện trước mặt


Hồi còn trẻ tuổi, nghe kể chuyện này chúng tôi bật cười. Sau này, qua bao nhiêu thăng trầm, bản thân tự xét thấy mình còn kém xa ở chỗ không dám đặt ra một chương trình tu luyện bản thân để cải tạo chính mình. Cho nên bậc anh hùng thứ thiệt chính là kẻ tự nhìn thấy khuyết điểm của mình rồi ra sức tự chuyển hóa, cho đến khi trở thành con người hoàn thiện hơn.

TÔI KHÔNG BIẾT TÔI LÀ AI?
Arthur Schopenhauer (1788-1890) là một nhà triết học người Đức nổ tiếng với tác phẩm: “The World as Will and Representation” (Thế giới như ý chí và biểu hiện). Lý thuyết siêu hình của ông chính là nền tảng cho các tác phẩm về để tài tâm lý học, mỹ học, đạo đức học và chính trị học, những tác phẩm đã để lại tầm ảnh hưởng tới các danh nhân sau này như: Friedrich Nietzche, Wagner, Ludwig Wittgenstein, Sigmund Freud và nhiều người khác.

Có thể ông ta đã đưa ra nhiều triết thuyết mới mẻ, gây cảm hứng cho nhiều triết gia nổi tiếng, có thể ông ta đã tung lên văn đàn lắm tác phẩm đặc sắc, và khởi đầu cho một sự nghiệp vĩ đại, nhưng trong thân sâu, của lòng mình, ông ta vẫn thắc mắc. Tôi là ai, mà chưa tìm ra đáp án.

Chuyển kể rằng: Triết gia Arthu Schopenhauer hôm nọ đang bước đi một mình trên hè phố, chím đắm trong suy tư, ngẫu nhiêm đâm sầm vào người khác. Tức giận bời cú hích bất ngờ và cái dáng vẻ hờ hửng rõ ràng của đối phương, người bộ hành này hét lớn”
- “Này ông nghĩ ông là ai chứ?”
Vẫn còn đắm chìm trong suy tư, triết gia nói:
- “Tôi là ai ư?Tôi muốn biết điều ấy biết bao!”
Chẳng có ai biết cả.
Nhận thức được điều này – rằng tôi không biết tôi là ai- thì cuộc hành trình tâm linh bắt đầu.

NGƯƠI LÀ AI?
Trong kho tàng minh triết Tây phương, ta đọc được câu chuyện thế này: Giửa cơn bạo bệnh thập tử nhất sanh, một người phụ nữ bị hôn mê dài ngày. Bà ta thấy mình bị đưa ra trước Thượng đế.
Một tiếng nói vang lên:
- Người là ai?
Người phụ nữ run sợ đáp:
- Thưa con là vợ của…
Tiếng nói ấy bỗng trở nên nghiêm nghị:
- Ta không hỏi ngươi là vợ của ai. Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi!
Người phụ nữ đáng thương vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của câu hỏi, bà ta tiếp tục thưa:
- Con hành nghề giáo viên…
Nhưng tiếng nói lại biến thành gay gắt:
- Ta không hỏi ngươi làm nghề gì.Ta chỉ muốn biết ngươi là ai mà thôi!
Nghe đến đây, người phụ nữ liền thưa:
- Con là một tín đồ Hồi giáo..
Tiếng nói tỏ ra gay gắt hơn:
- Ta chẳng hỏi ngươi có đạo hay là không. Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi!
Như một nỗ lực cuối cùng, người phụ nữ nhẫn nại:
- Con luôn giúp đỡ những người nghèo thiếu…
- Ta không cần biết người vị tha hay bác ái như thế nào, mà ta chỉ hỏi ngươi là ai!

Trong giây phút tỉnh ngộ, người phụ nữ biết được ý nghĩa cao cả của câu hỏi. Qua cơn bạo bệnh, bà ta quyết tâm sống để tự trả lời cho bằng được câu hỏi ấy. Vì đó là câu hỏi cần giải đáp nhất.

“CÁI CỦA TÔI” CHẲNG HỀ LIÊN QUAN
Tinh Vân là người sáng lập Trung tâm Phật Quang Sơn, Đài Loan. Một cơ sở Phật giáo tầm cỡ thế giới vào những năm 1950, nay là chỗ tu học, nghiên cứu, chiêm bái, tịnh dưỡng và cả tham quan du lịch cho vô số Phật tử. Cuối đời ngài nhường chức vị tọa chủ cho một môn đồ, còn bàn thân bước rong khắp nơi để tùy duyên giáo hóa chúng sanh.

Một hôm có một nhà điêu khắc phát tâm tạo tượng sư Tinh Văn.
Khi thực hiện xong bức tượng bắng sáp, ông ta thỉnh sư sang xem, sư khen là nhà điêu khắc đã tạc khéo như thật.
Huỳnh Chí Trung nhận xét: - Diện mạo thì rất giống, nhưng không sống dộng và toát ra thần thái dịu dàng của sư phụ.
Lâm Thanh Huyền bính: - Giống..nhưng thiếu vẻ trí tuệ linh hoạt
Tinh Vân mỉm cười, lắc đầu: - Tượng sáp này và ta đâu có liên quan gì!
Đại Chúng liền bật cười
- Đúng là cái nhìn của bậc hiền giả.

Ngay cả bản thân chúng ta còn chưa liên quan gì đến chúng ta, tên tuồi và danh vọng cũng chẳng liên quan gì tới mình, huống hồ một bức tượng được tạc bằng sáp ư? Nhưng, con người mê muội thì luôn luôn đồng hóa bản thân với bất kỳ sự vật nào ở bên ngoài, cho nên y thường tự chuốc lấy vô số khổ đau, trói buộc. Ngay cả những cái bên trong Ta cũng chỉ là thứ không có thật, nói chi tới cái bên ngoài.

VẪN LÀ CÂU HỎI: TÔI LÀ AI?
Trong Áo Nghiã Thư (Upanishads), một bộ luận thư nổi tiếng của Ấn Độ, có thuật một chuyện ngụ ngôn như sau: Chàng thanh niên Svetketu về thăm gia đình với niềm tự hào lớn lao bởi vì chàng ta vừa đổ đầu kỳ thi tốt nghiệp, và người cha đã nhìn thấy Sveketu tiến vào gần ngạch cửa.
Người cha chặn lại: - Con chớ nên vào nhà vội. Cha biết con đã thu nhập tất cả kiến thức trên thế gian này. Nhưng con có thể trả lời câu hỏi quan trọng nhất của kiếp người “TÔI LÀ AI?” hay không?

Svetketu thưa rằng:
- Thưa cha, đó không phải là chương trình học của con
Người cha bảo:
- Thế thi con hãy quay trở lại hỏi ngài viện trưởng câu hỏi ấy. Chừng nào con chưa trả lời được câu hỏi nầy, thì con chớ có quay về.

Người cha lật đật quay về bỏ mặc Svetketu đang bối rối, choáng váng “Cha ta nói rất đúng khi mà ta chưa biết mình là ai, thì những kiến thức màu mè mà ta có này sẽ dùng vào việc gì?” Và anh ta quay trở lui, lập tức xin yết kiến ngài viện trưởng.
- Cha con vừa nói rằng tất cả những gì mà nhà trường đã ban cho con đều tuyệt đối vô dụng, phù phiếm. Bây giờ con xin ngài dạy cho con biết “Con là ai?”.

Ngài viện trưởng ngẩm nghĩ rất lâu rồi nói:
- Cha con nói rất phải. Tích lũy tất cả kiến thức thế gian thì đương nhiên là một việc dễ dàng, nhưng để trở thành một người hiểu biết “Tôi là ai?” thì quả là một công việc vô cùng khó khăn, rất khó. Xưa nay hiếm kẻ thực hiện nổi, ta chỉ ngại anh không thể nhẫn nại để thực hiện công việc gian nan khổ nhọc ấy.

Svetketu cương quyết:
- Thưa ngài, dẫu khó khăn đến mấy đi nữa, thì con cũng ráng thực hiện. Nếu không thì con không thể bước vào nhà mình một cách đàng hoàng được.
Ngài viện trưởng miễn cưỡng bảo:
- Con hãy làm theo lời ta như thê này: hãy đem 100 con bò cái này đi vào rừng, và qua việc chăn thả, làm sao cho chúng sinh sôi để phát triển thở thành 1.000 con bê con. Hãy cứ an lòng ở trong rừng sâu hẻo lánh, nơi không một ai bén mảng, cho đến khi đủ số 1000 con, thì hãy trở về với thế giới loài người.

Như tuân theo một mệnh lệnh, Svetketu mang 100 con bò cái vào rừng sâu, nơi chưa hề lưu vết chân của con ngườiY chỉ biết chăm sóc đàn bò. Ăn với bò, ngủ với bò, chơi đùa với bò. Xung quanh y chỉ là một bầu không khí cô tịch và im lặng hoàn toàn. Bao nhiêu tri thức, đạo lý nhiệm màu và uyên áo mà y được học hỏi trong nhà trường, bây giờ Svetketu dường như đã quên bẵng. Bởi vì loài bò thì dường như không bao giờ biết tới kinh điển, hoặc minh triết, đạo lý nhân sinh. Bò chỉ nhai cỏ, nhai đi nhai lại và thảng hoặc bò lại rống lên vài ba tiếng cho vui, chứ loài bò thì không hề băn khoăn thao thức bất cứ điều gì. Riết rồi Svetketu cũng quen dần. Rất lâu, cho đến lúc nào đó, Svetketu quên mất bản thân mình. “Quên, quên, quên đã mang trái tim người!”

Hôm nọ, các sinh viên đã thấy từ xa 1000 con bò đang tụ tập đứng chung quanh trường học, và họ vào báo với ngài viện trưởng: “Svetketu đang trở về cùng 1000 con bò”. Quả thật như vậy, Svetketu đã trở về và đứng ở đó giống hệt như một con bò chìm lẫn trong 1000 con bò khác, im lặng. Và Svetketu không cần nói lấy một lời. Ánh mắt của Svetketu đã trở nên thuần khiết, nhu nhuyển và không ngừng tỏa sáng. Ngài viện trưởng kinh ngạc, chăm chăm nhìn Svetketu. Svetketu cũng dịu dàng nhìn ngài, không chờ đợi việc gì xảy ra cả.

Nhưng Svetketu vẫn đứng bất động, không nói gì, dường như Svetketu đã quên mất đường về nhà. Ngài viện trường khiến một sinh viên dẫn lối cho anh ta. Svetketu chỉ biết bước đi theo. Người cha lại trông thấy con mình qua khung cửa sổ, ông ta kinh ngạc:
- Lạy trời, con trai tôi đã thực sự biết mình là ai rồi. Nhưng bản thân tôi cũng chưa biết Tôi là ai, làm sao bây giờ?. Thế là ông ta tất tả chạy ra cửa sau, vừa bảo vợ:
- Con chúng ta đã trở 
về và biết mình là ai. Tôi phải trốn đi gấp. và sẽ không bao giờ quay về, nếu chừng nào tôi chưa biết rõ Tôi là ai.

KHÔNG AI CẢ
Descartes, triết gia Pháp lừng danh thế giới với tác phẩm phương pháp luận, đã để lại một danh ngôn thường được nhắc nhỡ trong các giảng đường đại học, hoặc được trích dẫn trên các trang sách của các nhà nghiên cứu, các tiểu luận của các sinh viên: “Je pense donc je suis” Nghĩa là “Tôi tư duy, như vậy tôi hiện hữu”. có một cái tôi thật sự và cũng có sự tư duy thật sự. Cái tôi và tư duy gắn bó keo sơn với nhau, bởi vì không thể tư duy nếu không có cái tôi. Cái tôi chính là cuống rún của vũ trụ là vậy.

Hơn thế nữa, không riêng gì Descartes mà toàn bộ nền triết học Tây phương, đều xây dựng trên một Cái Tôi thường hằng, bất biến. Điều này cũng dễ hiểu, nếu chúng ta nhận ra rằng, hết thảy hoạt cảnh trong vũ trụ này, hết thảy sản phẩm do tâm ý thức con người tạo ra đều bắt đầu từ một cái tôi năng động, thông minhkhông chấp nhận sống theo cái đã cũ. 
Toàn bộ nền văn minh Hy Lạp la-mã đều đặt cơ sở trên cái tôi ấy. Do vậy, suốt 2000 năm văn minh, người Tây phương luôn luôn nương tựa vào một cái tôi có thật, bền vững, và như vậy, họ suy nghĩ, hành động và định hướng cuộc sống trên cái tôi mà họ hết lòng tin vào năng lực gần như tuyệt đối của nó. Hiểu ngược lại cái tôi cũng là đầu mối của tất cả tai họa thảm khốc xảy ra triền miên trên khắp hành tinh, và dường như không có ai có thể ngăn chận nổi.

Nhưng các bậc hiền giả của nền minh triết phương Đông thì dường như không đi theo lối ngõ kia, ngoại trừ Khổng Từ mà chúng ta được biết như là một nhà lập thuyết chính trị, nhà cải cách xã hội, hơn là một triết gia. Mặc dù ngài nỗ lực san định Kinh Dịch một tác phẩm triết học cổ đại có giá trị vượt bậc.

Với cái nhìn “Vạn vật đồng nhất thể”, Lão tử không chấp nhận một cái Tôi của mình đứng tách riêng ra khỏi Cái Tôi bát ngát bao la vô hạn của vũ trụ. Ngài chủ trương con người muốn hạnh phúc thì nên quên cái tôi của mình (Vọng ngã) để hòa nhập với cái tôi lớn lao hơn, cao rộng hơn, tạm gọi là “Thái Cực”, “Vạn Vật chi mẫu”, “Vô vị chân nhân”, “Hỗn Độn”, “Cốc Thần”…

Người Ấn Độ thì tiến xa hơn với sự góp sức của công phu thiền định như là một đặc chất của nên văn hóa tâm linh mà trên thế giới không có một xứ sở nào được như vậy- suốt 7 ngàn năm lịch sử, họ bỏ ra nhiều thiên niên kỷ để quan sát Cái Tôi theo nhiều góc độ, dạng thức khác nhau, cuối cùng họ tuyên bố: Cái Tôi là cái không thật có. Cuộc sống con người chỉ là những chuỗi nghiệp chướng nối tiếp nhau mà không có một cái chủ thể gọi là Cái Tôi. 
 
Có hành động nhưng không có người tạo tác. Có tác nhân nhưng không có kẻ chịu quả báo. Có vô số diễn tiến của cuộc sống nhưng không có cái tôi, tương tự như chúng ta đi trên một máy bay gọi là Cuộc Sống, nhưng không có Phi Công hoặc không có Phi hành Đoàn. Đối với những người duy lý thì câu trả lời này có vẻ mâu thuẫn, nghịch lý không thể chấp nhận.

Khi một người tỏ ra nghi ngờ: Nếu nói như vậy thì ai là kẻ thọ nhận tất cả những quả báo đã được gây ra trong quá khứ?
Lập tức các đạo sư trả lời: - Dĩ nhiên, có một số mê lầm, vọng cháp đứng ra nhận chịu những nghiệp quả quá khứ, nhưng đó không phải là Cái Tôi thật. Thật ra, đó chỉ là một thứ Chấp Ngãchúng sanh tưởng nhầm rằng là Cái Tôi thật sự.

CON NGƯỜI VĨ ĐẠI NHẤT LÀ KHÔNG AI CẢ.
Một truyện trích từ kinh điển Nikaya của Phật giáo. Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa, có người hầu cận Xa Nặc hộ tống, nửa đêm vượt thành Ca-tỳ-la-vệ để xuất gia. Ngài liền đi từ rừng này đến rừng kia, từ vị đạo sư này đến đạo sư khác. Trước đây Ngài sống trong nhung lụa, nhưng bây giờ Ngài chỉ là một du tăng khất sĩ, bưng bình bát và đi bằng chân không. Qua bờ sông, dọc theo các con đường lớn nhỏ, bàn chân Trần của Ngài luôn luôn in dấu trên cát hoặc hằn trên nền đất. va ngài cứ tiếp tục đi và bỏ lại phía sau lưng tất cả những dấu chân của mình.

Một lần nọ, một nhà chiêm tinh bỗng gặp Ngài, trong khi Ngài nghĩ mệt dưới bóng cây. Nhìn thấy dấu chân lạ trên bãi cát ướt, ông ta cực kỳ kinh dị, bở vì đây không phải là dấu chân của người bình thường. Đây là dấu chân của một bậc Chuyển Luân Thánh vương, tức là vị hoàng đế vĩ đại hiện đang cai quản toàn bộ thế giới Diêm-phù-đề này. Nhưng nhà chiêm tinh lại càng ngạc nhiên hơn khi một bậc Chuyển –luân-thánh-vương mà lại đi chân đất trên bãi cát nóng vào một buổi trưa oi bức thế này?

Thế là nhà chiêm tinh lần theo dấu chân ấy. Ông ta thấy dưới tàng cây xum xuê, Thái tử Tất-Đạt-Đa dang nhắm mắt lim dim. Ông ta thưa rằng: - Tôi đã trông thấy và nghiên cứu dấu chân Ngài. Theo sở học của tôi, đây là dấu chân của vị hoàng đế làm cho chánh pháp ngự trị ở thế gian, cai trị bốn châu thiên hạ, có đầy đủ 32 tướng tốt, được trang bị 7 thứ châu báu, và hiển hiện 4 đức, giàu sang không một ai sánh kịp…thế mà hiện nay tôi thấy Ngài chỉ là một kẻ ăn mày không hơn kém!

Tại sao lại xảy ra nghịch lý này? Vị du tăng khất sĩ mở mắt, mỉm cười dịu dàng bảo: - Tôi đã được sanh ra là một vị Chuyển luân Thánh vương. Những dấu chân tướng mạo, đường nét…mà ông đã trông thấy, tất cả đều mang quá khứ của tôi. Chỉ đúng về quá khứ mà thôi! Nhưng không bao giờ đúng về tương lai, bởi vì tôi đã vứt toàn bộ quá khứ và tương lai vào cái chưa biết.

Nhà chiêm tinh nói:
- Tôi muốn biết Ngài có phải là Chuyển luân Thánh vương trá hình không?
- Không!
- Khuôn mặt Ngài có vẻ bình thản thế! Ngài có phải là Thiên thần hóa hiện ra không?
- Không!
- Nếu không phải là Thiên thần, thì chắc hẳn Ngài thuộc về một thế giới tối cao của Con người?
Thái tử Tất-Đạt-đa cười mỉm:
- Không ! Ta là Không Ai Cả. Ta không thuộc bất kỳ hình dạng nào, bất kỳ tên tuổi nào!
Nhà chiêm tinh vô cùng bỡ ngỡ:
- Ngài muốn nói điều gì?
Thái tử Tất-Đạt-Đa nhìn ra mênh mông:
- Và con người cao thượng nhất là Không Ai Cả.

Thật vậy, chẳng riêng gì Thái tử Tất-Đạt-Đa, mà toàn thể chúng sanh tất cả mọi người, đều mang đặc chất tâm linh Không Ai Cả. Nhưng chỉ vì vô minh, vọng kiếnchúng ta vẫn tưởng rằng, mình có một Cái Tôi làm chủ tế cho mọi sinh hoạt đời thường của mình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10075)
... người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó.
(Xem: 11851)
Phái đoàn chúng tôi gồm 34 người đã thực hiện chuyến hành hương Hàn Quốc - Đài Loan - Singapore, dưới sự hướng dẫn của trưởng đoàn Thầy Hạnh Giới.
(Xem: 11635)
Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh.
(Xem: 11692)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui.
(Xem: 10184)
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.
(Xem: 9469)
Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy.
(Xem: 10324)
Thuở đó, tăng đoàn thường ba Y, một Bát, từng bước chân trần hoằng hóa đó đây, đêm nghỉ trong rừng, tìm gốc cây êm mát, gối đầu mà ngủ.
(Xem: 9778)
Tập quán lì xì của người Việt chúng ta thực sự bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời của Trung Quốc...
(Xem: 11816)
Ta đưa đôi mắt thiền quán nhìn sâu vào danh tướng, để thấy rõ danh tướng có làm cho ai khổ đau không? Danh tướng không làm cho ai khổ đau cả, mà danh tướng cũng không làm cho ai hạnh phúc hết.
(Xem: 11486)
Như từ một đống hoa tươi, Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa, Nhiều tràng phô sắc mặn mà, Người đời cũng vậy khác xa đâu nào
(Xem: 10518)
Mỗi ngày khi vừa thức giấc, Hãy nghĩ rằng, May mắn thay hôm nay, Tôi đã thức dậy, Thấy mình vẫn còn sống, Vẫn giữ được sự sống quý giá của con người.
(Xem: 11849)
Khắp nơi trong cõi dương gian, Hận thù đâu thể xua tan hận thù, Chỉ tình thương với tâm từ, Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm, Đó là định luật ngàn năm.
(Xem: 10291)
“Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”
(Xem: 10490)
Cứ mỗi lần nhìn bức thư pháp nơi chánh điện chùa Phổ Từ, tôi lại nhớ đến Sư Ông. Không những qua hàng chữ mường tượng ra bóng dáng người mà trong nét bút màu mực lưu lại như còn văng vẳng lời nhắc nhở tràn đầy ưu ái của Sư Ông đối với tôi và mọi người.
(Xem: 10734)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát).
(Xem: 11535)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949).
(Xem: 10128)
Cho, không phải chỉ là làm vui kẻ đón nhận; mà còn là một thái độ, một nghệ thuật sống ở đời để có hạnh phúc...
(Xem: 9794)
Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn...
(Xem: 10415)
... ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình.
(Xem: 9662)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới...
(Xem: 11272)
Nụ cười của Ngài thật là tinh tế. Thế nhưng tại sao Ngài lại mỉm cười? Có phải đấy là một thể dạng phúc hạnh mà Ngài cảm nhận được trong khi thiền định hay chăng?
(Xem: 9914)
Con người đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổphiền não tham sân si, mạn, nghi, ác kiến.
(Xem: 11992)
Ngủ nghỉ mới thức dậy, xin nguyện cho chúng sanh, có trí giác hoàn toàn, nhìn rõ khắp mười phương...
(Xem: 9694)
Mãi cho đến mấy chục năm sau, Thầy mới tìm ra được hình ảnh của một vị Thầy đích thực, một vị Bổn Sư. Bổn Sư chỉ có nghĩa là "Thầy của tôi" thôi.
(Xem: 21996)
30 năm qua được coi là quá đủ cho một thế hệ tiếp nối. Nếu không được ghi lại, kể lại thì lớp người sau chắc chắn sẽ đi vào quên lãng hay hiểu một cách lờ mờ hoặc qua trung gian một người khác kể...
(Xem: 10234)
Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật.
(Xem: 9506)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này.
(Xem: 10237)
Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện...
(Xem: 16721)
Đạo sư nói: "Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều".
(Xem: 14329)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi, Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa, Múc bình nước mát về qua, Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa”
(Xem: 10295)
Người tụng kinh lâu ngày sẽ hiểu ý kinh, Người niệm Phật lâu ngày sẽ thấy cảnh Phật...
(Xem: 9279)
Triều Nguyên sinh năm 1953 tại Đại Lộc, Quảng Nam, bên bến sông Thu Bồn lồng lộng gió nắng, ngan ngát hương đồng cỏ nội.
(Xem: 9352)
“Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây bám chặt vào đất”.
(Xem: 13086)
Phật giáo đã có ít nhất 2500 năm lịch sử; và có lẽ, cũng đã có chừng ấy lần các thế hệ Phật giáo đồ xao lòng nhớ lại câu chuyện Phật dự hứa ngày viên tịch, báo trước giây phút bỏ lại trần gian.
(Xem: 10923)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi.
(Xem: 12451)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có những lời dạy thật chí thiết về con người và sự vật, cảnh giớicõi nầy hay những cõi khác.
(Xem: 10898)
Shunryu Susuki Đại sư (1904-1971) là người sáng lập Trung tâm Thiền San Francisco và là một khuôn mặt chủ chốt trong việc truyền bá đạo Phật sang phương Tây.
(Xem: 13063)
Cuối tuần qua, tại Trại Huấn luyện Huyền Trang V ở Hayward, CA. Vừa lắng nghe và thông dịch lại cho các Trại sinh không hiểu tiếng Việt qua đề tài Thấu đáo về Hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
(Xem: 11572)
Phật ngồi đó, tiếp tục thiền định với ánh mắt từ bi hướng về những người đang thảnh thơi thưởng thức một tách cà phê ấm hoặc bận chăm chú xem màn ảnh của điện thoại...
(Xem: 9865)
Trong khuôn viên khu nhà tập thể của quân đội, xe Bus của từng đơn vị lần lượt chuyển bánh rời khỏi vùng Fribourg vào sáng ngày cuối khóa tu học
(Xem: 12933)
Tường thuật lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập chùa Bảo Quang và Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu PL 2558
(Xem: 11416)
Suốt bãi biển dài rộng, không ai mong đợi một cái gì trường cửu. Tất cả đều tạm bợ, có đó, rồi để cho sóng vô tình cuốn đi...
(Xem: 13143)
Nó từng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chuyện trò đối đáp đùa giỡn của chúng tôi quanh chiếc bàn này - vui có, buồn có, thương yêu, giận lẫy cũng có.
(Xem: 12674)
Thế giới của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi người không chỉ chăm lo về lợi ích riêng của mình mà còn chăm lo về lợi ích của người khác nữa.
(Xem: 13480)
"Cơn Dông Giữa Mùa Hạ" là tựa đề bài tường thuật của Trần Thị Nhật Hưng nói lên nỗi niềm bâng khuâng và xúc động cùng những kỷ niệm tràn ngập dội về tâm trí của tác giả khi hay tin Sư Ông Khánh Anh viên tịch.
(Xem: 25222)
Thể theo giáo luật và truyền thống Phật Giáo, mùa An Cư Kiết Hạ lần 26 năm nay của GHPGVNTN Canada được tổ chức tại Tu Viện Phổ Đà Sơn.
(Xem: 12469)
Buổi lễ khai giảng diễn ra trong bầu không khí trang nghiêmtrầm lặng đầy nước mắt, bao trọn hình ảnh của cố Hòa Thượng Minh Tâm trong những lời phát biểu.
(Xem: 12956)
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
(Xem: 13774)
Loài cỏ bệnh úa tàn thân xác, Đã gầy hao từ gốc rễ cằn khô, Chắc tại nắng, tại mưa, tại bao điều khác, Nằm co ro đợi chết đến giờ
(Xem: 11244)
Trước khi khởi sự tu tập để phát huy lòng từ bi và tình thương, cũng cần nên tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ ấy là gì...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant