Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khen Chê Là Việc Thường Tình Của Thế Gian

02 Tháng Tám 201508:59(Xem: 9157)
Khen Chê Là Việc Thường Tình Của Thế Gian

KHEN CHÊ LÀ VIỆC THƯỜNG TÌNH CỦA THẾ GIAN

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Khen Chê Là Việc Thường Tình Của Thế Gian

     Khi được khen ai cũng vui tươi,
     Khi bị chê ai cũng buồn chán,
     Người khôn vượt khỏi khen chê,
     Thân tâm an ổn, vui tươi làm lành.

     Bài kệ ý nói xưng tán, ca tụng, khen ngợi hay khiển trách, chê bai; nói gọn lại là khen và chê; hai ngọn gió này là một cặp thăng trầm khác mà con người luôn phải thường xuyên đối phó. Khi được tán dương, ca tụng, ngợi khen thì ta được nở mặt nở mày với tất cả mọi người; khi bị chê bai, chỉ trích thì mặt mày ủ rũ, khốn khổ như kẻ mất hồn, tinh thần suy sụp.

      Có ông già nọ cùng cậu con trai dắt nhau ra chợ để mua ngựa. Mua được con ngựa vừa ý hai cha con mừng quá nên cùng nhau dắt ngựa về nhà. Đi được một đoạn người qua kẻ lại bàn tán xôn xao: “Thiệt là hai cha con ngu dốt làm sao, ai đời mua ngựa làm gì mà không chịu cưỡi, lại dắt đi bộ như thế giữa trời nắng chang chang”.

      Hai cha con nghe vậy mới bàn với nhau: “Phải rồi, mình mua ngựa để cưỡi chứ ai lại dắt đi bộ thế này”. Thế là hai người đồng trèo lên ngựa cưỡi đi, nhưng được một đoạn họ lại gặp người khác phê bình: “Đúng là kẻ ác nhân thất đức, hai cha con như vậy mà thượng lên con ngựa thì nó làm sao chịu nỗi, thật là ác độc quá chừng”.

     Nghe thế người con lật đật tuột xuống để người cha một mình cưỡi ngựa. Người cha ung dung ngồi trên lưng ngựa và cảm thấy rất vui vẻ, nhưng đi một lát lại gặp một người phê phán, chỉ trích: “Đúng là ông cha thời nay có khác, con còn nhỏ đáng lẽ cha phải nhường con ngồi ngựa, cha gì mà lại đi dành phần hơn, nỡ để con phải đi bộ như thế”.

     Người cha nghe nói tức quá chịu không nỗi nên liền xuống ngựa, nhường lại cho con. Đi thêm một đoạn lại gặp người dè bỉu, chê bai: “Đúng là thời đại đảo điên, con cái bây giờ quá bất hiếu, không biết kính trên nhường dưới, đành lòng ngồi trên cưỡi ngựa mà để cha mình phải đi bộ như thế, đúng là thứ con trời đánh”.

     Câu chuyện trên nếu nhân vật cha conchúng ta thì mình xử trí ra sao? Hai cha con sau khi mua ngựa cùng nhau đi bộ thì bị người ta chửi “ngu”, người cha cưỡi ngựa một mình thì lại bị chê “tàn nhẫn”, cùng nhau lên ngựa thì lại bị nói “độc ác”, con cưỡi một mình thì lại bị gọi “thứ con bất hiếu”.

     Vậy phải làm sao để vừa lòng tất cả mọi người? Chúng ta ai cũng đều biết trên đời này không bao giờ có chuyện vừa lòng hết mọi người. Nếu nghe một lời chê nào ta cũng sửa đổi theo ý người khác, hay khi nghe khen ta hoan hỷ, vui vẻ làm theo thì rõ ràng ta cũng giống như hai cha con ông già mua ngựa.

     Tức là khi ta được người khen hay bị người chê thì họ chỉ là những người bàng quan bên ngoài lâu lâu chọt vô một tiếng, vậy mà mình lại dính mắc theo họ. Khi làm việc gì ta phải có lập trường của riêng mình, phải xác định mục tiêu, lý tưởng rõ ràng, không nên vì tiếng khen chê của thiên hạ mà tự làm khổ mình.

      Ta có quyền lắng nghe sự khen tặng hay chê bai của người khác, cái gì đúng ta bắt chước làm theo, cái gì sai ta cố gắng sửa đổi. Nói đúng nói sai, nói phải nói quấy, nói tốt nói xấu là chuyện của mọi người, ta có quyền tiếp thu ý kiến đúng và loại bỏ ý kiến sai. Nếu không như vậy thì suốt cả đời ta cứ bị tiếng khen lời chê làm rối loạn tinh thần nên mất bình tĩnh, do đó dẫn đến buồn vui lẫn lộn mà không làm chủ được bản thân.

 Đức Phật an nhiên tự tại trước mọi khen chê

 Nói đến khen chê ta hãy xem đức Phật khi bị như vậy Ngài xử trí thế nào? Một hôm, đức Phật đi trước và một nhóm sa môn ngoại đạo theo sau. Các vị sa môn trẻ hết lời khen ngợi đức Phật là vị tu hành chân chính, có trí tuệ và khả năng biện tài vô ngại, dám bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ để đi tu và là vị thầy dẫn đường xứng đáng nhất thời đó.

      Khi nghe như vậy các vị tỳ kheo cùng đi với Phật rất hân hoan, khoái chí vì thầy của mình được mọi người khen tặng nên bản thân cũng được thơm lây. Đi được một đỗi lại gặp đám đông khác nói: “Ông sa môn Cồ Đàm là kẻ phá hoại sự sống của nhiều người. Ai cũng thích tiền tài, sắc đẹp, danh vọngăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều.

     Vậy mà ông ta lại khuyên không nên chạy theo và dính mắc vào chúng mà làm tổn hại thân tâm. Ông ấy đi đến đâu là người ta đổ xô theo đến đó để tu tập khiến chồng bỏ vợ, cha bỏ con để sống đời xuất gia”.

     Như chúng ta đã biết, người trẻ tuổi thì khen Phật quá hay, kẻ lớn tuổi thì chê Phật phá hoại hạnh phúc gia cang của nhiều người. Vì Phật nói chuyện nhân quả hay quá nên nhiều người phát tâm tu theo. Khi nghe chỉ trích Phật vẫn an nhiên, bình tĩnh. Trong khi đó các vị tỳ kheo cảm thấy rất khó chịu, bực bội.

     Đến chỗ có bóng cây che mát Phật mới bảo các đệ tử ngồi xuống rồi từ tốn nói bài pháp như sau: “Này các đệ tử, khi nghe lời khen ta chớ vội mừng vì mừng quá sẽ mất bình tĩnh, hễ mất bình tĩnh thì tâm bị dao động, khi tâm bị dao động thì làm sao ta biết rõ người ta khen đúng hay sai.

     Khi nghe ai đó chê bai hay chỉ trích thì ta chớ có vội buồn, vì khi buồn ta sẽ mất bình tĩnh, lúc mất bình tĩnh thì ta không biết lời chê đúng hay sai. Khen chê là chuyện thường tình của thế gian, có nhiều người khen để lấy lòng thiên hạ, có nhiều người chê vì ganh tị tật đố. Cho nên, chúng ta phải sáng suốt, bình tĩnh trước những lời khen chê đó”.

     Cuộc sống của chúng ta hằng ngày lúc nào cũng phải tiếp xúc với hai sự khen-chê. Ta phải lắng nghe lời khen hay tiếng chê để biết mà sửa mình. Ai khen đúng thì ta cố gắng tiếp thu, thay đổi. Ai khen sai ta phải dè dặt, coi chừng nhưng phải bình tĩnh, khoan mừng, khoan buồn, khoan giận, khoan ghét thì chúng ta mới sáng suốt để nhận thức được tiếng khen đó nhằm vào mục đích gì.

     Khi bị chê ta phải biết lắng nghe lời chê để biết được họ nhằm mục đích gì, họ chê để hạ nhục uy tín của ta hay chê để ta biết mình sai mà cố gắng sửa sai sao cho tốt đẹp hơn. Theo tâm lý học Phật giáo, tất cả chúng sinh khi nghe ai khen đều rất phấn khởi, vui mừng; khi bị chê thì rất bực tức, khó chịu, buồn phiền. Nhiều khi ta chịu không nỗi nên tức quá cãi lại thành ra hai bên đấu khẩu nhau, cuối cùng “chó le lưỡi, nai giạt móng”. Lời khen tiếng chê tuy không thật nhưng nếu ta chấp vào đó thì thành ra mình bị nó sai sử, khi thì vui mừng quá mức, lúc lại buồn rầu, khổ đau.

Người đời thường chấp vào khen chê cho nên khổ

Ngày xưa, chúng tôi có quen một cô nọ là người giỏi giang, học giỏi, có bằng đại học và có nhan sắc mặn mà cũng rất dễ thương. Cô có tiền tài, danh vọng nhưng không thích lấy chồng, chỉ thích nghề gõ đầu trẻ mà thôi.

     Cô sống như vậy cho đến năm 28 tuổi thì bắt đầu nghe bà con cô bác hàng xóm xầm xì bàn tán với nhau: “Ôi, đồ thứ con gái hư, từng tuổi ấy mà không có ai đến rước, chắc cha mẹ cô ta ăn ở thất nhơn ác đức lắm nên bây giờ cô ta mới bị ế chồng như vậy”. Thật ra, cô ta được rất nhiều chàng trai ưa thích đến tán tỉnh, nhưng vì cô có tâm nguyện muốn xuất gia tu hành nên đã từ chối hết những lời tỏ tình đó.

      Sau khi nghe mọi người chê bai, chỉ trích như vậy, cô tức quá mới nói: “Tôi sẽ lấy chồng liền cho mọi người coi. Tôi xinh đẹp, duyên dáng thế này mà nói tôi là cái thứ con gái hư. Để chứng minh cho mọi người thấy cha mẹ mình là người có đạo đức, cô lập gia đình rồi kế hoạch hóa không cho có con quá sớm để có thời gian rãnh rỗi mà làm nhiều việc phước thiện.

     Có chồng đã hơn ba năm mà chưa có mụn con nào, bà con hàng xóm bắt đầu bàn tán xì xào: “Đúng là cây độc không trái, gái độc không con”. Ý họ nói cô ta không sinh con được, mà người đời nói phụ nữ ác độc nên không thể sinh con.

     Khi nghe mọi người nói vậy cô tức quá liền bỏ kế hoạch hóa gia đình và bốn năm sau cô sinh được bốn đứa con. Lúc này cô phải đầu tắt mặt tối, vừa đi dạy, vừa chăm lo cho bốn đứa con nên nhan sắc tàn phai, mặt mày xuống cấp, trông cô chẳng khác một bà già đã U50.

     Vì chạy theo lời khen tiếng chê mà hôm nay cô phải chịu khổ đủ điều, nhưng như vậy đâu đã xong xuôi và êm thắm mọi việc. Chồng cô bây giờ lại sinh tật bồ nhí, vợ lớn vợ bé nên lại có chuyện để hàng xóm xôn xao: “Sao chị ngu quá vậy, chị để cho nó lấy chồng mình công khai, phải cạo cái đầu khô của nó ra mới được, tụi tui sẽ phụ cho”.

     Lúc bấy giờ cô mới nói: “Thôi, ổng có vợ bé thì mặc kệ ổng. Tôi vui vẻ, hạnh phúc sống khi thấy các con đều thành đạt là đủ rồi”. Thật may, cô vì biết đủ nên sống an ổn, nhẹ nhàng, giữ vững được hạnh phúc gia đình cho đến ngày nay đã gần 60 tuổi, con cái giờ đây đều khôn lớn trưởng thành, có nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Chồng cô qua đời trong cơn bạo bệnh nên bây giờ cô không còn bận bịu vì ai nữa, lúc này mọi người lại đến nói ra nói vào như sau: “Thật tội nghiệp cho chị quá, sao chị ở vậy có một mình, chị hổng thấy buồn hay sao?”

     Chuyện đời là thế đó, quý vị có thấy không? Chỉ vì lời khen tiếng chê mà cô bạn của tôi đã bị quay như chong chóng suốt gần 30 năm, nhưng những lời đó có giá trị thật sự hay không. Vậy mà khi nghe ai khen “sao dạo này nhìn chị trắng trẻo, đẹp ra nhiều” dù ta đang đen, lùn, xấu thì mình cũng mừng quýnh mà tin đó là sự thật.

     Một lời khen đúng sẽ giúp ta thăng hoa đạo đức tâm linh, một lời khen sai chỉ làm hại ta rơi vào hố sâu tội lỗi. Do đó, ta không nên khen ai khi thấy họ làm sai. Một người nào đó uống rượu như hũ hèm, ngày nào anh ta cũng uống mà chẳng bao giờ thấy say, gặp người như vậy ta không nên khen vì sự tác hại của rượu rất ghê gớm.

     Mỗi khi không làm chủ bản thân họ có thể hành hạ, đánh đập vợ con, hiếp dâm, giết người bừa bãi. Ta cũng không nên chê bai khi thấy người khác làm việc thiện lành, tốt đẹp, bởi chê như vậy vô tình ta làm hại người đó và làm tổn phước cho bản thân.     

    Đứng về phương diện thế gian, một tiếng khen nhẹ nhàng, đúng lúc cũng như một liều thuốc bổ giúp ta phục hồi sức khỏe nhanh chóng, làm ta cảm thấy hài lòng, mát dạ. Nhưng nếu lời khen đó không đúng sự thật, chỉ là lời của kẻ nịnh bợ hay gian dối, phĩnh gạt sẽ làm cho ta sinh tâm cống cao ngã mạn mà chuốc lấy khổ đau vì dễ dàng bị người lợi dụng làm chuyện xấu.

     Ta không nên khen để lấy lòng cấp trên, khen để người ta đam mê dính mắc, khen để được lòng mọi người để rồi ác tâm mưu hại hoặc lường gạt của nhau. Khi thấy ai làm một việc ích lợi cho nhiều người thì ta hãy nên thành thật khen tặng, để người đó càng ngày càng làm tốt hơn trong việc chia vui sớt khổ. Khi ta bị người đời khinh thường, coi rẻ, chê bai thì ta đã biết trước kia mình gieo nghiệp ác quá nhiều, thay vì bị đọa địa ngục để trả quả khổ đau, nay đời này ta bị khinh chê nhiều nên tội nghiệp đời trước lần hồi được tiêu diệt theo thời gian.

     Khen đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng sẽ kích thích cho người đó thêm sự cố gắng mà làm tốt hơn. Trái lại, việc khen chê không đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng sẽ làm người đó tự ái mà có thể làm hại lại chính ta. Là người Phật tử chân chính ta phải sống có ý thức trong việc khen chê, phải làm sao cho phù hợp lòng người.

     Thường những người quản lý, các nhà lãnh đạo giỏi, các nhà giáo dục tâm linh thường sử dụng lời khen chê như một công cụ giao tiếp chủ đạo nhằm kích thích đối phương càng cố gắng phục vụ tốt hơn. Lời khen đúng như rót mật vào lòng nên ai không ham, không thích, không khoái sao được. Nó là liều thuốc bổ giúp con người hoàn thành tốt mọi công việc được giao.

     Tuy nhiên, cũng không thiếu những người quản lý, các nhà lãnh đạotiếng tăm khi tiếp xúc với kẻ dưới quyền họ chỉ phê phán, chê bai nhiều hơn khen ngợi. Họ ít quan tâm lắng nghe sự chia sẻ của người khác, do đó dễ đụng chạm tự ái mà sinh ra phiền muộn, khổ đau.

     Khen và chê là hai cặp thăng trầm trong việc đối nhân xử thế. Ai cũng cảm thấy hãnh diện khi được khen và cảm thấy buồn phiền khi bị chê. Những người hay khuyên nhủ, nhắc nhở ta, hay chê trách ta đúng sự thật thì đó là thầy ta. Ta hãy nên biết ơncung kính học hỏi người đó. Những ai chê và khen không đúng sự thật tức là kẻ tiểu nhân, kẻ gian dối, dua nịnh, hay khen sai để lấy lòng mình thì ta nên thận trọng.

 Tỉnh giác để làm chủ khen chê

 Khen và chê là hai cặp đối đãi làm cho nhiều người điên đảosi mê, vọng động. Người trí sẽ không bị lung lạc bởi tiếng khen lời chê nên hiên ngang, sừng sững như tảng đá lớn mặc tình cho mưa rơi, gió thổi vẫn không làm lay động được.

    Như chúng ta đã biết, từ ngàn xưa đến nay không có một ai hoàn toàn bị chê, hay người trọn vẹn được khen. Nếu luận về khen chê thì quả thật trong cuộc đời này biết bao giờ ta kể cho hết, nhưng chưa có người nào hoàn toàn bị chê và cũng chưa có người nào được khen trọn vẹn. Chính đức Phật mà còn bị người khác chê bai, chỉ trích, chửi mắng thì huống hồ chúng ta bây giờ chỉ là hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi.

     Một hôm, trên đường đi giáo hóa Phật bị một người theo sau chửi mắng thậm tệ nhưng Người vẫn thong dong, bình tĩnh bước đi nhẹ nhàng, không nói một tiếng nào. Kẻ kia tức quá chạy lên phía trước chặn lại và nói:

     “Này Cù Đàm, ông có điếc không?” Phật nói: “Ta không điếc.” “Nếu Ngài không điếc, tại sao nghe tôi chửi mà Ngài vẫn làm thinh?” Phật bảo: “Này anh bạn, giả sử nhà ông có tiệc tùng, ông mời bạn bè người thân tới dự và có chút quà để tặng nhưng họ không đến. Vậy quà đó thuộc về ai?” “Quà ấy vẫn thuộc về tôi chứ ai.” “Cũng vậy, ông từ sáng đến giờ cho ta quá nhiều ngôn ngữ yêu thương nhưng ta đâu có nhận. Vậy quà đó vẫn thuộc về ông.”

     Người ta chê bai, chửi mắng Phật nhưng Ngài vẫn an nhiên, bình thản không đón nhận mà còn khởi tâm từ bi thương xót vì người kia quá vô minh, mê muội. Chúng ta tu theo Ngài cũng vậy, ta không nên để lời khen tiếng chê làm rối loạn tâm cang. Bởi người đó không dám chấp nhận người khác có tài đức hơn mình nên mới tìm cách chê bai, lăng nhục Phật như thế. Khi nghe Phật nói như vậy ông ta liền thức tỉnhnhận ra lỗi lầm của mình do tâm ganh ghét tật đố, từ đó ông phát tâm quy y đầu Phật.

      Người chê ta mà chê phải chính là thầy ta, người chê ta mà chê sai là vì ganh ghét, tật đố vì thấy ta hơn họ. Người khen ta mà khen phải là bạn ta, nhưng kẻ khen theo kiểu vuốt ve, nịnh bợ là kẻ thù của ta. Ở đời có hai sự khen chê, một là khen chê bằng tấm lòng chân thật để giúp ta làm tốt hơn hoặc để ta biết sai mà sửa sai; hai là khen chê bằng sự ganh ghét, tật đố khi thấy ta thua người hay vì quyền lợi riêng tư.

     Miệng lưỡi thế gian lúc nào cũng có hai mặt phải và trái, đúng và sai, ta cần phải nhận biết lời chê tiếng khen của mọi người thật hay giả để biết ai là bạn, ai là thù. Từ vua chúa cho đến thứ dân bần cùng thật khó một ai tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc trong lời nói.

    Người chê ta mà chê đúng là thầy ta, người chê ta mà chê sai là kẻ muốn hại ta. Người khen ta mà khen đúng là bạn ta, người khen ta bằng cách tâng bốc, nịnh hót là kẻ vì lợi ích riêng tư, đa số là kẻ dưới quyền. Mỗi khi ta phạm sai lầm thì ta không dễ gì nhận ra.

     Người chỉ ra cái sai của ta tức là giúp ta thấy được cái sai của mình thì hiển nhiên họ là thiện hữu tri thứchiểu biết hơn ta. Người đó xứng đáng là bậc thầy của ta về trí tuệ. Hơn nữa, họ dám chỉ cho ta nhận ra cái sai của mình để ta có hướng khắc phục, sửa đổi nên đó chính là người có tâm từ rộng lớn muốn giúp ta thăng tiến trên con đường tu học. Ta hãy tôn xưng người ấy làm thầy để có điều kiện được gần gũi học hỏitu hành.

     Người khen ta mà khen phải là người tốt không có tâm đố kỵ, hiềm khích trước những cái tốt, cái hay của người khác. Họ khen ngợi ta để cùng chung vui, chia ngọt xẻ bùi. Đó chính là người bạn tốt, ta hãy nên kết làm bạn tri kỷ.

     Trong cuộc đời mình nếu ta có được nhiều người thầy, người bạn như thế thì ta quá ư là diễm phúc. Tuy nhiên, trong cuộc sống không phải ai khen hay chê mình thì đều là thầy, là bạn của ta. Để nhận ra đâu là người bạn đích thực biết khen ta đúng lúc, đúng việc chứ không gian dối, nịnh bợ thật không dễ tí nào.

     Trước hết, kẻ gian dối, nịnh bợ khen ta là xuất phát từ lòng vị kỷ, vì mục đích mưu cầu lợi ích riêng tư. Những kẻ đó luôn lấy việc vuốt ve, nịnh bợ để tiến thân khiến cho người được khen ngày càng tự đánh mất mình, xa rời lẽ phải mà rơi vào chỗ khốn cùng. Thật đáng tiếc thay, thời đại nào cũng có vô số những kẻ như thế.

     Sử sách đã ghi lại không biết bao nhiêu bậc vua chúa vì những lời ngon tiếng ngọt mà dẫn đến người tôi trung bị hãm hại, dân tình sống điêu linh khổ sở vì nạn bóc lột thậm tệ của kẻ quan quyền. Lời dạy của người xưa luôn giúp chúng ta biết phải sáng suốt để nhận ra đâu là bạn, đâu là thù. Ai khen ta thật lòng thì ta càng cám ơn họ và càng cố gắng làm tốt hơn nữa những việc làmlợi ích cho xã hội.

     Ngày nay, nền kinh tế thị trường mở cửa nên có nhiều người vì muốn được danh thơm tiếng tốt, tiền bạc dồi dào mà bằng nhiều cách thường vuốt ve, nịnh bợ cấp trên nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho riêng mình nên dễ làm tổn hại, thất thoát của chung. Chúng ta muốn mọi người giúp ta, chỉ lỗi cho ta, chê ta thật lòng thì mình phải biết coi trọng những người đó như ân nhân của mình.

     Cũng vậy, đối với gia đình người thân, bạn bè, anh em, ta phải sống với nhau chân tình, thành thật, dám chỉ ra những khuyết điểm của nhau để ta và người cùng sửa saihoàn thiện chính mình. Nói tóm lại, người khen ta mà khen đúng, người chê ta mà chê đúng thì ta hãy nên nhận những người này là thầy bạn tốt của ta. Ngược lại, người khen ta mà khen sai, người chê ta mà chê sai thì ta hãy nên thương họ nhiều hơn vì họ quá vô minh, mê muội nên mới có thái độ và hành động không tốt như thế.

     Cho nên, khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an, khi bị bất an ta sẽ bị hai ngọn gió khen-chê thổi bay mất, mà người tu cần phải “Tám gió thổi chẳng động” thì sự tu mới có kết quả tốt đẹp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16675)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24143)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20571)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18271)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19847)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14844)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12971)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13955)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13147)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14008)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17636)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15397)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14691)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14455)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17852)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21896)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20605)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25133)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16878)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14711)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18980)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22001)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25281)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15769)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20723)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17012)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18632)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20021)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39307)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31510)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36014)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23865)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26548)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant