Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

So sánh giải thoát Vedanta và giải thoát Phật giáo

18 Tháng Tám 201506:44(Xem: 10173)
So sánh giải thoát Vedanta và giải thoát Phật giáo

SO SÁNH GIẢI THOÁT VEDANTA VÀ GIẢI THOÁT PHẬT GIÁO 

Thích Đồng Niệm


So sánh giải thoát Vedanta và giải thoát Phật giáo

Tư tưởng mộng mơ thời cổ đại Ấn Độ, họ chưa giải thích được những biểu hiện thiên nhiênhoàn cảnh quanh mình. Khái niệm thần khải là điều không thể tránh từ cổ chí kim. Có xã hội không mỹ thuật không triết học, nhưng xã hội nào mà không có tôn giáo, không có một hệ thống tín ngưỡng riêng.

Tuy nhiên, tư tưởng tín ngưỡng con người không phải cô đọng ngưng trệ một chỗ như hòn đá vô tri đặt đâu nằm đó. Từ tư tưởng thô sơ giản dị, người Aryan tiến đến một nhận xéttính cách chủ quan dựa trên lý trí của con người. Trong lúc con người đang vương vấn trên nền tín ngưỡng đa thần giáo. Tư tưởng mỗi ngày một phát triển, lý trí phán đoán từ chủ quan đến khách quan, người ta tự hỏi vũ trụ từ đâu có? 

Nguồn gốc nhân sinh từ đâu phát sinh? Sau khi chết về đâu… giữa những bế tắc chưa tìm ra lối thoát, tưởng như con người sẽ lang thang trong cõi mộng dạ trường; Giữa lúc con người đang phủ trên mình chiếc áo nô lệ của sự phân biệt giai cấp thì Đức Từ Phụ Thích Ca thị hiện như một đấng cứu tinh, đưa nhân loại thoát khỏi xiềng xích kỳ thị, đem lại cuộc sống thanh bình cho người dân Ấn Độ. Cũng chính sự xuất hiện ấy đã góp phần làm cho nền triết học Ấn Độ ngày càng tươi sáng. 

Vậy mà nhiều người kết luận rằng: “Đức Phật là người tích hợp tư tưởng triết học Ấn Độ”. Lời nhận xét ấy có quá chăng? liệu đức Phật có thật sự tích hợp tư tưởng của các đạo giáo khác không? Để chứng minh nhận định đó đúng sai thế nào người viết sẽ so sánh “Tư tưởng giải thoát của Vedanta và Phật giáo”. 

Nhìn chung thì cũng có điểm giống về cách thức tu tập, tức là quay trở về bên trong bằng con đường “thực nghiệm tâm linh”cũng như tu luyện về đạo đức.  Hay họ còn chủ trương “chỉ khi nào con người hòa đồng được tiểu ngã của mình với đại ngã của vũ trụ thì lúc ấy mới có giải thoát”[1] 

Tư tưởng giải thoát của Phật giáo còn vượt xa hơn nữa, khi đã thành tựu được mục tiêu giác ngộ giải thoát rồi, hành giả cần phải vứt bỏ luôn các phương pháp tức là phá luôn pháp chấp. Trong kinh Phật thường nói: pháp “như tiêu nguyệt chỉ” hay “như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” cũng có nghĩa là khi con người đạt đến mục tiêu giải thoát thì phải bỏ luôn tất cả các phương pháp ấy để đạt được sự giải thoát tuyệt đối, như người qua sông, qua đến bờ liền bỏ thuyền. 

Nếu đứng trên lập trường hoạt động, thì tư tưởng giải thoát của Vedanta mang nặng tính chất tiêu cực. Như ở trên ta đã đề cập giải thoát là sự từ bỏ tất cả gia đình, xã hội, rút vào rừng sâu  để chuyên tâm tu tập, thể nghiệm tâm linh mà không chú trọng đến số đông, không vì lợi ích chung cho con người. Đức Phật, khi chưa thành tựu được tuệ giác, Ngài cũng có một thời gian xa lánh thế tục để tu tập nhưng khi giác ngộ, giải thoát thì Ngài quay trở lại nhân gian cứu độ chúng sanhtại Ấn độ, có nhiều tôn giáo, nhưng chỉ có Phật giáo là lấy toàn thể chúng sanh làm đối tượng để truyền giáo và cũng chỉ có Phật giáo mới có những giáo lý làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mọi hạng người”[2] . 

Mặt khác, Vedanta cho rằng giải thoát là quá trình đưa tiểu ngã Atman hay linh hồn cá biệt hòa nhập vào đại ngã Brahman hay “tinh thần vũ trụ tối cao”. Ngược lại, Phật giáo phủ nhận vai trò sáng tạo muôn loài của Brahman và nói rằng: “Phạm thiên chỉ là một giống sinh vật cao cấp hơn người, tuy sống hạnh phúcthọ mạng lâu hơn người, nhưng vẫn ở trong vòng sống chết luân hồi. Bản thân Phạm thiên, chính vì thiếu trí tuệ, cho nên tự cho mình là thượng đế, là đấng tạo thế. Còn những người tu đạo Bà là môn, tuy tự đặt cho mình cái đích cao nhất là hòa mình vào Phạm thiên, nhưng từ trước tới nay, chưa từng có một tu sĩ Bà la môn nào dám mạo nhận mình đã hòa hợp được với Phạm thiên cả”[3]. 

Chính vì thế, Phật giáo cho rằng giải thoát chính là Niết bàn, là trạng thái như thật, vắng mặt khổ. Hay có thể nói tư tưởng giải thoát của đạo Phật bắt nguồn từ nỗi khổ của nhân sinh, và như chúng ta đã biết Thái tử Tất Đạt Đathương xót con người,  vì sự khổ của sanh già bệnh tử, từ bỏ mọi vui thú ở đời, ra đi tìm chân lý cứu độ chúng sanh, sau khi viên thành đạo quả, với tuệ giác siêu việt, đức Phật tuyên bố cuộc đời là khổ đau, khổ là một sự thật là một thực trạng trong kiếp sống nhân sinh.

Đức Phật trình bày về khổ không phải là để cho chúng ta chán nản, bi quanmục đích của Ngài là giúp cho chúng ta thấy rõ sự khổ đau và từ đó thoát ly xa lìa đau khổ, nhưng muốn hết khổ Phật dạy chúng ta phải xa lìa tham ái, chấm dứt mọi khổ đau, và một khi hành giả đã biết được khổ, nguyên nhân của khổ, nên khởi tâm ly dục, xa lìa chấp thủ thì sẽ được an lạc giải thoát, và để được giải thoát không gì hơn là lấy Tứ Diệu Đế làm mục tiêu

Như vậy, triết lý giải thoát trong Phật giáo là quá trình tu tập thực nghiệm để xoá bỏ mọi chấp trước, hướng dẫn con người đến một trạng thái thanh tịnh, vắng lặng an vui.
   
Trong khi tư tưởng giải thoát  Vedanta đã khám phá ra một con đường, một cách thức giải thoát mới,  đó là dùng trí tuệ để lý giải những vấn đề mà nguồn gốc của vũ trụtìm ra con đường giải thoát cho con người khỏi những nỗi khổ đau, chủ yếu là làm sao cho tiểu ngã, hoà nhập vào đại ngã. Như vậy, muốn khổ đau không gì hơn là phải trải qua quá trình tu luyện đạo đức, thực nghiệm tâm linh, diệt trừ mọi dục vọng tham đắm. Để giải thoát cho linh hồn khỏi phải chịu sự đầu thai thì họ cho rằng cần phải dốc lòng tu luyện, suy tư, thiền địnhthực hành tế lễ để đưa linh hồn trở về với bản thể vũ trụ tuyệt đối, hoà nhập với “Linh hồn vũ trụ tối cao” Brahman. 

Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo. Nếu như Vedanta đưa ra một con đường có phần huyền bí, mang nặng tính tôn giáo, thì Phật giáo gần gũi với việc đưa ra con đường khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về cái thiện và làm điều thiện. Nếu con đường tu đạo của Vedanta có sự phân biệt giai tầng, thì con đường của đạo Phật là cho mọi chúng sinhđức Phật nói: “Như Lai chỉ dạy một điều là khổ não và sự chấm dứt mọi đau khổ”. “Ví như biển lớn cũng chỉ có một vị mặn… pháp và luật này cũng chỉ có một vị là giải thoát”[4]. 

Trên đây là một số quan điểm cũng như về tư tưởng khác nhau giữa Phật giáo và Vedanta. Dù có sai khác nhưng Phật giáo và Vedanta vẫn là suối nguồn tâm linh, đã và đang tuôn chảy trong hàng triệu triệu trái tim của con người trên thế giới.
  
Thích Đồng Niệm

[1] . Kimura Taiken-Thích Quảng Độ (dịch), Đại thừa Phật Giáo tư tưởng luận, Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh, SG,1969 ,tr.200. 
[2] . Kimura Taiken-Thích Quảng Độ (dịch), Đại thừa Phật Giáo tư tưởng luận, Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh, SG,1969 , tr. 199. 
[3] . Minh Chi, Các Vấn Đề Phật Học, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1995, tr. 20. 
[4] . HT. Thích Minh Châu (dịch)Tăng chi Bộ kinh, tập 3, chương VIII, II: Phẩm lớn, câu 16, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1996. 
(Phật Giáo Việt Nam)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10279)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11183)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9930)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10177)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9629)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10016)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8778)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8508)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10026)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 9981)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9426)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10569)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9116)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10498)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11272)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8480)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12606)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10131)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8417)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9643)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9492)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8106)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9959)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9206)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13321)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9533)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8658)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10296)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8628)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8610)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14182)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10177)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8575)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11468)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11813)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8744)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8092)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9339)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10385)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8681)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8785)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16039)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9868)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11374)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10178)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8341)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
(Xem: 9257)
Theo Phật giáo, con người là hợp thể năm uẩn, gồm sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Khi một người chết đi, phần quan trọng nhất là tâm thức thì theo nghiệp tái sinh.
(Xem: 9982)
Xuất gia không có nghĩa là sự trốn chạy cuộc đời, không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống hiện tạilẩn trốn mọi ràng buộc.
(Xem: 8575)
Nhân quả nghiệp báo rất công bằng, làm phước thì được an vui hạnh phúc, làm ác thì phải chịu quả báo khổ đau.
(Xem: 12109)
Trong đời sống hàng ngày, những ai có khả năng giúp chúng ta phát triển tín, giới, văn, thí, tuệ thì họ chính là thiện tri thức
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant