Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự Tu Trong Đời Sống

10 Tháng Mười 201512:45(Xem: 9291)
Tự Tu Trong Đời Sống

TỰ TU TRONG ĐỜI SỐNG

Mãn Tự

                                                                                                
Tự Tu Trong Đời Sống                            

Hiện nay, Kinh sách Đạo Pháp Giác Ngộ được dịch ra nhiều ngôn ngữ, được ấn tống hay được bày bán trong các tiệm sách hầu như trải khắp năm châu. Vì vậy bất cứ người nào biết chữ thì cũng có thể tham khảo hay học hỏi đều được hết.

Đời sống vật chất trong thế kỷ 21 này có thể gần như thỏa mãn phần nào nhu cầu hưởng dụng của một số lớn thành phần trong xã hội trên hành tinh này. Dù là như vậy, nhưng đã là con người thì không phải chỉ có vật chất không là đủ, mà nó cần có tinh thần. Vì vật chất cùng tinh thần luôn luôn song hành trong một con người vì vậy trong hai không thể thiếu một. Ý tưởng tạo nên vật chất, vật chất nuôi sống con người sống quân bình giữa hai mặt thì nhất địnhmột đời sống tốt đẹp, không mong cầu hạnh phúchạnh phúc vẫn đến vì là thành quả của quân bình.

Khoa học phát minh khám phá ngày càng cao thì một số thành phần tôn giáo thuộc về Thần quyền hướng ngoại lần lần bị đào thải vì không đáp ứng được nhu cầu hiểu biết của nhân loại thời bây giờ. Để lấp đầy khoảng trống đó thì đạo Giác Ngộ như cái phao cứu sinh của những tâm hồn đang lênh đênh trên biển cả bao la không thấy đâu là bờ bến.

Nhờ kinh điển rời tu viện nên giáo pháp Giác Ngộ được lan truyền rộng rải khắp năm châu, đến mọi thành phần trong xã hội không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, bất cứ người nào chỉ cần biết chữ thì có thể  tham khảo, tìm hiểu, tu tập, thực hành theo trình độ, theo nhu cầu của mỗi cá nhân.

Giáo Pháp Giác Ngộ được truyền bá rộng rãi như hiện nay đó là nhờ chung tay góp sức của các bậc Tôn túc đáng kính, các vị Thiện nhân ấn tống, các vị cầu phước cúng dường. Nhờ vậy màmột lượng lớn người biết đến giáo lý Giác Ngộ, có một số tham khảo tìm hiểu, và một thành phần đang thực hành tu tập theo giáo pháp mà các vị đó cảm nhận gần gũi ưa thích.

Tuy là như vậy, nhưng do nhu cầu đời sống vật chất quá cao nên mọi người phải vất vả mưu sinh, có chút thời gian nào rảnh rỗi thì dành cho gia đình vợ chồng con cái. Vì vậy phần đông những vị có tâm với đạo pháp cũng khó mà dành được thời gian đến gặp các vị Cao Tăng, các vị Tôn túc hay các vị thiện Trí thức để tham cầu học hỏi thêm. Hơn nữa vì phương tiện quá đầy đủ muốn tham cứu tìm hiểu loại Kinh sách nào cũng có sẵn trên máy tính hay chiếc điện thoại cầm tay, chỉ cần bỏ ra năm hay mười phút là có ngay. Do phương tiện quá phong phú nên phong trào tự học, tự thực hành giáo lý Giác Ngộ trong đời sống được phát sinh một cách rộng rãi. Quan trọng hơn nữa là trình độ một số sư thầy không đáp ứng được sự thông hiểu giáo lý thâm diệu của nhiều vị tự học, tự thực hành.

Giáo pháp Đức Thế Tôn Như Lai để lại là Pháp sống động, thường hằng nên dù là quá khứ, hiện tại hay vô lượng thời gian của tương lai thì Pháp vẫn luôn luôn song hành, tuyệt đối không bao giờ có chuyện cũ - mới, trước - sau. Pháp là vậy, nhưng hiện nay có một số sư thầy chỉ biết giảng nói về pháp chết như cúng dường, xây chùa, tạc tượng, cầu phước, trợ tử, cầu siêu…Thật ra không phải Đức Thế Tôn không thuyết giảng về những việc đó, nhưng những việc đó hầu hết là sau khi thuyết giảng pháp thoại xong. Vì tâm Từ bi Bình đẳng nên đối với một số vị trong pháp hội không thể nhận lãnh được giáo pháp cũng có lợi ích nên chư vị Bồ Tát mới thỉnh cầu Đức Thế Tôn thuyết giảng phước đức về những pháp đó.

Những điều ở trên là trong những yếu tố đưa đến hiện tượng tự học, tự thực hành giáo pháp Giác Ngộ ngay trong đời sống như hiện nay. Đó là sự khích lệ to lớn với chúng ta là những người đi theo bước chân của Đức Như Lai Thế Tôn. Dù rằng số lượng nhiều là thế, tuy nhiên để đến chỗ rốt ráo mong cầu thì hầu hết cầm bằng không. Tại sao như vậy? Ở đây có ba điều tối quan trọng mà những vị tự tu học nhận thức chưa thấu đáo vẫn còn hời hợt.

          Đây là ba điều:

  1. Chư vị không biết được, không nhận ra căn cơ trình độ của chính mình.
  2. Môi trường thực hành.
  3. Chưa quan tâm đúng mức về giới luật.

Thứ nhất: Không biết, không nhận ra căn cơ trình độ như thế nào? Thông thường những vị tự tu ngay trong đời sống là tự mình nghiên cứu kinh sách, tự chọn lấy kinh nào, pháp môn nào mà mình cảm thấy gần gủi ưa thích rồi thực hành theo đó, ít khi thông qua các Sư Thầy hay các vị thiện Trí thức có nhiều kinh nghiệm chỉ bảo. Vì không nhận ra căn cơ trình độ chính tự thân mà có nhiều vị loay hoay suốt nhiều chục năm cũng không nhận ra được là mình thích hợp vời pháp môn nào, căn cơ nào, trình độ nào. Kinh Pháp của Đức Như Lai hay luận của các Bồ Tát, các Tổ để lại thật là phong phú, sự diễn giải kinh nghiệm thực hành tu tập từ sơ phát tâm cho đến ngồi đạo tràng đều đầy đủ. Tuy nhiên, đem sự hiểu biết của tri thức để nhận ra mình thuộc căn cơ nào, là Nhân thiên, là Nhị thừa, là Bồ tát, là Như Lai thì bất khả.

Có nhiều vị phải bỏ ra nhiều năm tu theo Đại Thừa, nhưng sau cùng lại nhận ra căn cơ mình thuộc Nguyên thủy, rồi cũng có nhiều vị tu học theo Nguyên thủy nhiều năm rồi sau cùng nhận ra căn cơ mình lại là Đại Thừa. Thật đáng tiếc thay vì khi nhận ra thì thời gian bỏ ra cũng quá đủ dài không thể quay lại được nữa.

Đa phần những vị tự học tự tu đều chọn kinh sách Đại Thừa, vì kinh sách Đại Thừa văn nghĩa quảng đại, ít gò bó, tự do tự tại, lời kinh mênh mông bao la không bờ bến, không giới hạn, diễn tả những cảnh giới bất khả tư nghì của các vị Đại Bồ Tát

đã – đang - sẽ thực hành những hạnh nguyện to lớn vĩ đại, hầu như vượt qua tâm lượng suy nghĩ của nhân gian. Trong những bộ kinh Đại Thừa, Đức Thế Tôn luôn luôn nhắc nhở rằng: “Những lời Pháp trong kinh Đại Thừa nếu thâm nhập được ngộ ra thì nó là cam lồ diệu dược, còn không thì ngược lại nó là độc dược uống vào làm chết người”.

Trong những vị tự học tự tu cũng có nhiều vị rất dũng mãnh, quyết tâm tinh tấn, ý chí kiên cường, nhưng rồi thành quả chẳng có là bao, vì không có người đi trước chỉ dẫn. Trên đường thực hành đôi khi thấy là đứng lại là lùi nhưng thực sự là đang tiến, còn đôi khi thấy là tiến bộ là thuận đường mà thật sự là đang dừng lại, là thụt lùi. Vì vậy rất cần có người đi trước đầy đủ kinh nghiệm chỉ dẫn giảng giải thì mới không bị lạc đường. Có những vị học giáo pháp Đại Thừa mà khi thực hành lại theo Tiên đạo nên kết quả thành Địa Tiên. Tuy khỏe mạnh, có chút thần thông da dẻ hồng hào sống lâu, cũng có trí tuệ dù vậy với giáo pháp Đại Thừa vẫn ở bên ngoài. Cũng có nhiều vị học giáo pháp Đại Thừa, nhưng thực hành lại theo phương pháp Yoga nên kết quả rơi vào đạo Hindu - Bà-la-môn giáo; vì vậy các vị đó nghĩ giáo pháp Đại Thừa cùng nguồn gốc với đạo Hindu - Bà-la-môn giáo. Hay có những vị học giáo lý Đại Thừa, nhưng khi thực hành thiền định lại hướng tâm diệt khổ cầu mong Niết bàn nên kết quả rơi vào Nhị Thừa. Hay có nhiều vị tu theo công án thoại đầu Thiền Tông, nhưng khi thực hành lại không biết thế nào là thoại đầu, là công án. Vì vậy cứ lãi nhãi lập đi lập lại những câu nói của người xưa rồi tự cho mình ngộ Thiền đắc Thiền. Những vị đó thật là nhiều, tuy nhiên dù đông vậy cũng không có một vị nào nói được một câu siêu Phật vượt Tổ như ngài Bạch Ẩn thiền sư người Nhật “Lắng nghe tiếng vỗ một bàn tay”.

Công án mà không phải là Thoại đầu, có Thoại đầu mà không phải là Công án. Câu chuyện Hoàng Bá đánh Lâm Tế ba lần thì đó là công án. Còn câu “Trước khi trời đất sinh ra ta là cái gì”, thì đó là thoại đầu. Tại sao Hoàng Bá tạo công án cho Lâm Tế? Vì Lâm Tế không có câu hỏi nào hết. Còn Triệu Châu lại cho thoại đầu “Cây Bách trước sân” khi vị tăng hỏi “Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma sang Đông độ truyền pháp gì?”. Công án là bùng vỡ, còn Thoại đầu là ngăn dứt. Các vị tu thiền hãy cẩn trọng thẩm tra suy lường kỹ lưỡng căn cơ trình độ chính xác của mình rồi sau đó mới nhận lấy pháp môn thực hành. Thoại đầu là dành cho trình độ sơ cơ; Công án là dành cho các vị đã gần giác ngộ. Không hiểu thấu đáo như vậy thì cho dù thực hành nhiều năm cũng chỉ là công cóc mà thôi.

Đây là bằng chứng: Trong kinh Đại Bát Niết Bàn có hai đoạn kinh xin đưa lên đây để cùng chiêm nghiệm: “Có một vị làm thợ vàng và một vị làm nghề thợ giặt đến xuất gia với ngài Xá-Lợi-Phất. Ngài Xá-Lợi-Phất dạy vị thợ làm vàng thiền định tu bạch cốt quán, còn vị làm nghề thợ giặt thiền định tu sổ tức quán. Hai vị tích cực tinh tiến thực hành một thời gian lâu nhưng không có kết quả chứng đắc gì hết, cuối cùng hai vị đó lên gặp Đức Thế Tôn bạch rằng giáo pháp ngài dạy không có quả vị A-La-Hán vì họ nghiêm chỉnh tinh tiến tu hành nếu có thì họ đã đạt được. Nghe hai vị đó trình bày, Đức Thế Tôn kêu ngài Xá-Lợi-Phất đến quở là dạy điên đảo. Ngài Xá-Lợi-Phất bạch với Thế Tôn thật ra là ngài không có trí căn trí lực nên ngài dạy chỉ vì tâm từ bi mà thôi. Sau đó Đức Thế Tôn mới dạy vị thợ làm vàng tu sổ tức quán và vị thợ giặt tu bạch cốt quán và không bao lâu hai vị đó đồng đắc quả A-La-Hán”.

Đoạn thứ hai: Cũng trong kinh Đại Bát Niết Bàn Sư tử hống Đại Bồ Tát. Khi Thế Tôn giảng về Như Lai tánh thì ngài Sư tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thập địa Bồ Tát tu bao nhiêu pháp mà thấy tánh Như Lai chẳng rõ ràng còn chư Thế Tôn tu bao nhiêu pháp mà thấy tánh Như Lai được rõ ràng?”. Đức Thế Tôn dạy: Thập địa Bồ tát tu đủ mười pháp, tuy vậy mà thấy tánh Như Lai chẳng rõ ràng, mười pháp đó là: 1. Ít ham muốn. 2. Tự biết đủ. 3. Tịch tĩnh. 4. Tinh tấn. 5. Chánh niệm. 6. Chánh định. 7. Chánh Huệ. 8. Giải Thoát. 9. Tán thán giải thoát. 10. Dùng pháp Đại Niết Bàn giáo hóa chúng sanh.

Thập địa Bồ Tát còn tu mười pháp như vậy mà chỉ thấy một phần ít tánh Như Lai, vì sao? Do huệ nhãn mà thấy thì thấy tánh Như Lai chẳng được rõ ràng, còn Như Lai nhãn thì thấy được rõ ràng. Nếu vô hành vô tác thời thấy được rõ ràng…

Những con đường trên quả địa cầu này từ con đường lớn xe chạy tới con đường đi bộ, đến những con đường mòn trong rừng núi cho đến con đường bay của hàng không… có thể nhiều vô số kể. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với con đường tâm thức tu hành thì không đáng kể vào đâu. Con đường nhân gian tuy nhiều nhưng đều có dấu vết, có bắt đầu và có điểm đến nên có thể theo dõi được. Còn con đường tâm thức thì tuyệt nhiên không có điểm bắt đầu cũng không có nơi chấm dứt, vì nó nằm ngoài số lượng. Mong rằng chư vị tu học trong đời sống hãy cẩn trọng chọn lựa để có được một pháp môn thích hợp với trình độ căn cơ của mình, nhờ vậy mà đường tu được hanh thông, có thể làm ít mà được nhiều; còn không tuy có làm nhiều mà chẳng có được bao nhiêu.

Thứ hai: Tu học trong môi trường đang sống. Trong kinh điểnĐại Thừa hay Nguyên Thủy, Đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng ta nhiều pháp môn để tu học. Như kinh Lăng Nghiêm có hai mươi lăm phương pháp thực hành của hai mươi lăm vị Thánh, cộng thêm chú Lăng Nghiêm đại địnhtánh Thấy đốn ngộ của Thế Tôn, còn kinh Lăng Già thì có bốn cấp độ thiền là:

1. Phàm phu sở hành thiền.
2. Quán sát nghĩa thiền.
3. Phan duyên như thật thiền.
4. Như Lai thanh tịnh thiền.

Kinh Giải Thâm Mật thì có du già chỉ quán… Còn kinh Nguyên Thủy A Hàm thì có quán Tứ-Đế: Tứ thiền cửu thứ đệ định, diệt tận định… nhiều thật nhiều. Còn Thiền Tông thì có thiền công án, thiền thoại đầu thật là vô cùng đa dạng đa sắc thái. Vì vậy, bất cứ một người nào từ sơ cơ cho đến thượng thừa cũng có thể tìm được cho mình một pháp môn thích hợp để thực hành. Tuy nhiên, điều tối ư quan trọng không mấy người nhận ra ở đây là: pháp môn tu học đó là Thế Tôn chỉ dạy cho giới nào, là Tỳ kheo xuất gia hay cư sĩ tại gia, là Bồ Tát hay nhị thừa.

Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và đời sống của ta đang sống thì không thể uyển chuyển cho thích nghi với hai môi trường cá biệt. Thí dụ: Trong kinh Thế Tôn dạy giáo pháp cho các Tỳ Kheo xuất gia rời bỏ gia đình nuôi sống bằng khất thực, đã từ bỏ gánh nặng thế gian, thân được rảnh rỗi nhẹ nhàng, thiền định tu học hướng tâm đến giải thoát theo giáo pháp đã dạy.

Còn các vị sống trong thế gian, thân còn gánh nặng bổn phận cơm, áo, gạo, tiền. Tâm còn nhiều lo lắng ưu tư mà chọn học theo pháp Đức Thế Tôn dạy cho các Tỳ Kheo để thực hành thì khó được kết quả như mong muốn nếu không biết uyển chuyển cho thích hợp. Trong kinh Đại Bát Niết Bàncâu chuyện vị Tỳ Kheo yêu cầu ngài A-Nan phải treo bảy báu nơi chỗ vị đó thiền định thì vị đó mới đắc quản A-La-Hán.

Môi trường rất quan trọng, nó là nhân tố quyết định 50% cho sự thành bại của những người tu học. Môi trường sống là y báo còn ta là chánh báo, mà y báo thì không rời chánh báo. Tuy nhiên, không tuyệt đối là như vậy, vì nếu chánh báo đủ năng lực thì có thể chuyển chuyển được y báo, còn không thì y báo chuyển chánh báo mà hầu hết là như vậy.

Môi trường có thể cho ta một cái lượng tương đối, còn cái phẩm thì nó không không quyết định được. Thí dụ như bưởi da xanh, vú sữa lò rèn, gạo nàng thơm chợ đào ở miền Tây Việt Nam chúng ta, những giống cây ăn quả đó nó chỉ thích hợp với một vùng đất đó mà thôi. Còn nếu đem trồng nơi khác thì nó cũng lên cây lên trái nhưng phẩm chất thì không giống nhau. Còn xa hơn nữa, cây vải thiều ở tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh mà đem vào trồng ở miền Tây thì nó cũng lên cành lá sum sê nhưng trái thì tuyệt nhiên không ra.

Môi trường quan trọng như thế đó dù với cây cỏ thực vật mà còn tác động lớn như vậy, thì thử nghĩ với tâm thức trùng trùng duyên khởi của chúng ta thì sự ảnh hưởng thân tâm của nó còn to lớn đến cở nào. Dù là như vậy, nhưng chúng tacon người nên có thể giải quyết tất cả miễn là ta có ý chí giải quyết như thế nào. Giải quyết theo câu nói của Lục Tổ Huệ Năng là: “Không phải phướng động, không phải gió động mà là tâm động”.

Thứ ba là không mấy quan tâm về giới luật. Tu học trong đời sống thì giới luật đúng là cục xương nuốt không trôi. Vì trong năm giới căn bản là: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, không dùng chất làm mất lý trí. Đối với người sống trong nhân gian mà giữ một giới nào trong năm giới thì đó là một sự khó khăn nan giải, một sự mất mát vô cùng to lớn. Trước khi ta có ý định thọ trì giới luật thì hầu hết chắc chắn là một cuộc chiến khốc liệt xảy ra bên trong chúng ta; mà chiến tuyết một bên này là thói quen, còn bên kia là ý chí. Thói quen nó sẽ đưa lên một bức tranh ảm đạm, một cuộc sống tiêu cực hoàn toàn thiếu đi sự năng động. Còn tâm thức thì khỏi phải nói nó viện dẫn ra một kho lý luận triết lý hiện sinh rất là logic, nó dễ dàng đánh bại ý định của chúng ta.

Giữ giới có nghĩa là đi ngược lại dòng chảy của thế gian, nên vô cùng khó khăn gian nan để giữ đối với người sống trong trong nhân gian tự học tự tu hành. Dù xuất gia hay tại gia tu hành mà không có giới luật thì tuyệt đối không thể Giác Ngộ - không thể giải thoát được. Có tu lâu thì chỉ cũng thành ngoại đạo hay các cảnh giới chư thiên mà thôi. Muốn Giác Ngộ, muốn được giải thoát thì phải tự chiến thắng chính ta chớ không phải van cầu xin xỏ.

Cốt tủy của giới luật là một động lực giúp ta chiến thắng sự ươn hèn yếu đuối chính ta, nhờ vậy giới giúp ta tích lũy xây dựng lên một ý chí không lay động, nhờ vậy mà ta dũng mãnh tinh tiến đi tới vì thấy sự lợi lạc từ trì giới. Ta sống trong nhân gian này giống trong một đại dương mênh mông bao la lúc nào cũng sóng gào gió thét, mà sinh mạng thì trôi qua từng phút từng giây bất cứ lúc nào cũng có thể dìm ta vào đáy biển mà không một nhân sinh nào làm chủ được.

Đại dương là gì? Là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nó đối với: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta mà tạo nên sóng gió. Ngoài đại dương tùy thuộc theo hai luồng không khí nóng lạnh lớn hay nhỏ để nó tạo nên cơn gió, cho đến những cơn siêu bão tàn phá thật khủng khiếp cả người lẫn vật chất. Cũng vậy, sáu căn của ta tiếp xúc với sáu trần bên ngoài rồi cũng tùy theo sự chấp thủ của ta mà ngọn gió tham-sân -si-mạn-nghi-ái-kiến lục dục thất tình nó khởi lên tàn phá thân tâm. Gió bão thiên tai nó đến vùng nào là nghiệp chung của chúng sanh vùng đó thu hút chứ nó không có tâm chọn lựa. Còn chúng ta là những người tu hành thì khác, ta có quyền chọn lựa vì ta có tâm. Ta có thể ngăn ngừa chặn đứng được cái nhân tham-sân-si… ngay trong tâm thức khi nó mới bắt đầu manh nha khởi động, vì vậy mà cái quả không thành, muốn làm được những điều kỳ diệu đó thì phải trì giới vậy.

Giới là sự củng cố ý chí, giới là sự rèn luyện thử thách giúp ta dũng mãnh kiên cường bất khuất, giới giúp ta chiến thắng chính ta, giới là con đường bằng phẳng đưa ta đến kho tàng chánh pháp, đưa ta đến những chân trời sáng lạng chân thiện mỹ. Giới làm cho sự thấy biết của ta vượt lên sự thấy biết chung của nhân gian.Giới giúp ta bên ngoài thắng được cái thân, bên trong thắng được cái tâm sở. Nhờ vậy mà đường tu học thực hành được vững vàng như chim có hai cánh thì bay lượn được dễ dàng. Giới làm cho thân khinh an, tâm an lạc ít bệnh, ít đau quỷ thần xa lánh không dám lại gần. Người trì giới thành công cả hai mặtthế giantu hành, người trì giới giống như một chiến binh được huấn luyện trong một quân trường đặc biệt, chỉ dành cho những quân nhân nào có được từ ý chí tinh thần cho đến thân thể đều kiên cường dũng mãnh mới chịu đựng được sự trui rèn khắc nghiệt. Vì vậy, khi ra trường họ mới làm được nhiều việc mà người bình thường thì không thể nào.

Uống nước tự biết nóng lạnh, cũng vậy nếu đứng ngoài mà suy luận thì giới là một sự tiêu cực vì nó ngăn chặn mọi cuộc vui thô phù nô lệ của nhân gian; nhưng khi ta thực hành trì giới thì sẽ nhận ra giới giống như cái áo giáp vô hình hoàn mỹ, nó giúp ta ngăn chặn thập diện mai phục công kích của địch quân tên đạn chưa bao giờ ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, sự tiêu-trưởng của thân tâm này dù âm thầm hay xuất hiện thì ta vẫn cúi đầu làm theo mệnh lệnh nó mà thôi. Cho nên nhờ có giới mới giúp ta quật ngược lại thế cờ chuyển bại thành thắng, giành quyền làm chủ và cái Thức giả dối không còn sai khiến ta được nữa.

 

Mãn Tự
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20697)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13533)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14245)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
(Xem: 12271)
Đã lâu rồi, gặp lại nhau, chúng mình đều già hết. Người bạn thân ở lúc nào đó, nay nhìn lại, cũng khó nhận ra. Mái tóc đã bạc, vầng trán có nhiêu gạch dài...
(Xem: 12778)
Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có...
(Xem: 14335)
Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.
(Xem: 14350)
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.
(Xem: 15675)
Mùa đông ở đây không có tuyết, nhưng cũng đủ lạnh cho những chiếc lá ngả màu và em tôi quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Tôi thích mùa đông...
(Xem: 12989)
Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 17403)
Má không biết đường sá thành phố, cũng chẳng mấy khi lên Sài Gòn, họa hoằn là đi khám bệnh hoặc lên thăm bà con. Mỗi khi lên thành phố, má thường rất lo lắng.
(Xem: 15716)
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này, chúng ta không chịu buông xảtham luyến tất cả những gì ‘của mình’; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời...
(Xem: 12476)
Kinh điển nhà Phật thường nói lòng từ bi của Phật và các vị bồ-tát đối với chúng sinh giống như lòng thương của cha mẹ đối với con cái.
(Xem: 12451)
Mới vừa đây, trên cành cây, có nhiều cánh hoa mai vàng nở, mắt mơ màng sau bao năm tháng ẩn nhẫn chờ đợi ngày khoe áo mới. Có những cành đào sum sê là hoa...
(Xem: 14022)
Cứ mỗi lần nhớ thầy, giấy mực là người bạn duy nhất để con trút ra vô vàn tiếng nói tự cõi lòng của một người đệ tử tận chốn phương xa. Mỗi tuần một lá...
(Xem: 15943)
Danh từ Generation Gap nghĩa là Khoảng Cách Thế Hệ (mỗi thế hệ cách nhau từ 20-40 năm để người trẻ tuổi lớn lên trở thành người lớn tuổi)...
(Xem: 13598)
Tôi gọi người cha là Anh, còn con trai ông là Dũng, vì hai cha con ông thật... anh dũng. Mỗi sáng, họ có mặt ở công viên rất sớm.
(Xem: 14958)
Sau những cái nóng nực gay gắt của mùa hạ đã đi qua, trời bắt đầu sang thu, thoáng đâu đây cơn gió đầu thu nhè nhẹ thổi sang như báo hiệu trong thiên hạ một điều gì đó.
(Xem: 14488)
Liệu hạnh phúc của con người có bị đám yêu tinh kia giấu mất? Câu trả lời tùy thuộc chính bản thân chúng ta trong quá trình tìm kiếm hạnh phúc cho mình...
(Xem: 13566)
Một thời Thế Tôn trú ở Kapilavatthu, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe...
(Xem: 13427)
Khi tôi viết những dòng chữ này thì tôi vẫn còn cách người mẹ già của tôi đến gần một ngàn cây số. Và những dòng chữ rất riêng tư này, tôi tin rằng...
(Xem: 11705)
Đúng vào hôm tôi vừa ở Phật Học Đường Báo Quốc về thì Vĩnh đến thăm. Anh đến mang cho tôi một chồng sách Phật viết bằng tiếng Pháp mà anh mới gởi mua ở tận xứ xa.
(Xem: 13828)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời,...
(Xem: 12954)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy,...
(Xem: 14923)
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp...
(Xem: 12573)
Cơn trốt tàn nhẫn quét ngang cánh đồng trống, ngang qua những căn nhà gỗ mong manh, xoáy mạnh và bốc lên cao những người, thú, đất đá và cây cối…, rồi vô tình thả xuống lại trên những đồng cỏ...
(Xem: 17402)
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm, người chủ định đem chúng gieo...
(Xem: 16407)
Như đã nói, nhiều bạn trẻ chọn những xâu chuỗi màu tối của Phật giáo, lẫn giữa những sắc màu sinh động khác, thoạt đầu chỉ vì muốn tạo cho mình một phong cách mới lạ...
(Xem: 14555)
Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là “biệt khu”. Những “biệt khu” này tạo thành những góc...
(Xem: 14818)
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
(Xem: 26768)
Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài...
(Xem: 14668)
Sau hai năm học con vẫn học giỏi với số phẩy trên 8,0, con cố gắng từng ngày vì niềm hy vọng của ba má, niềm tin của các em và của nhiều người gửi gắm.
(Xem: 13571)
Thượng Tọa Thích Quang Lạc ấn nút cho chiếc ghế bành Lazy boy giữ độ nghiêng vừa ý, đoạn ngã người lún sâu vô lớp nệm mousse dầy cộm,...
(Xem: 13787)
Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá cây.
(Xem: 13713)
Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật".
(Xem: 14996)
Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh!
(Xem: 15331)
Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn...
(Xem: 14017)
Biển sâu thẳm, biển mênh môngdiễm tuyệt, biển bao dung vô lượngbiến ảo vô biên... Vì thế biển cũng là Tâm.
(Xem: 14958)
Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn.
(Xem: 13786)
Có một vị bồ-tát rất tầm thường ở trong nhà của tôi, nhà của các bạn, nhà của mọi gia đình ở xứ này. Vị bồ-tát ấy cũng có mặt ở các văn phòng, hãng xưởng...
(Xem: 14643)
Cuộc sống không phải là một mẻ lưới của số phận. Cuộc sống chính là một mối giao hoà bất tận giữa mỗi cá thể đang tồn tại. Và trong mối giao hoà đó...
(Xem: 14608)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì cái không cũng vô tận...
(Xem: 16648)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 18219)
Bảo Lâm bước chậm lại... ý như để lắng nghe tiếng chim hót líu lo từ phía khu rừng trúc. Vài tia nắng nhẹ vừa xuất hiện phía hừng đông, bầu trời trong xanh văng vắt...
(Xem: 27114)
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông...
(Xem: 23680)
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt...
(Xem: 26447)
Nó đưa tay quệt đôi mắt mọng nước giọng đầy kiên quyết nói với cậu Út: - Nếu con thấy người đàn bà ấy xuất hiện ở nhà này lần nữa, con sẽ không tha đâu.
(Xem: 16679)
Mười năm vườn xưa xanh tốt Hai mươi năm nắng rọi lều tranh Mẹ tôi gọi tôi về Bên bến nước rửa chân
(Xem: 18916)
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc...
(Xem: 17729)
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài,...
(Xem: 13969)
Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant