Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đường Trở Về

30 Tháng Giêng 201618:59(Xem: 8957)
Đường Trở Về

ĐƯỜNG TRỞ VỀ

Thích Thông Phương

Đường Trở Về


Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa chắc rằng không thể quên câu chuyện: đứa con ông Trưởng giả bỏ cha đi lưu lạc lang thang, làm gã cùng tử thật đáng thương. Từ địa vị là con một ông Trưởng giả giàu có, gia tài, sự sản không thể tính kể, đó là một kho tàng mà mình sẽ thừa hưởng chứ không ai khác; nhưng đành bỏ đi lang thang, ăn mày từ nơi này sang nơi khác, đến nỗi mỗi ngày càng xa quê cũ. Rồi trong một giây phút nào đó, trên bước đường lưu lạc đó đây, bỗng dưng gã ăn xin lần lượt trở về đúng vào ngôi nhà xưa ấy, gặp ngay người cha ấy, nhưng nào có hay biết, vì đã quên mất cội gốc của mình từ lâu.

Đã tự mang mặc cảm mình là kẻ ăn mày lang thang không ra gì, thì đối với một người cha giàu có, sang trọng như vua chúa kia bao giờ dám ngó đến, nói chi là nhận đó làm cha. Đọc câu chuyện trên, chúng ta cảm thấy thương tiếc cho gã cùng tử đó vô cùng! Song xét lại, chúng ta ngày nay có khác gì với gã cùng tử kia! Mỗi người chúng ta hiện nay, đâu không phải là kẻ đang thừa kế một gia sản vô vàn trân quý, mà đành bỏ đi lang thang trong khắp nẻo luân hồi, làm khách phong trần đói khát, khổ sở !

Điều đó không có gì lạ, bởi chúng ta ai ai cũng có đủ một ông cha "chẳng sanh chẳng diệt", với một kho tàng "công đức trí tuệ vô biên", dùng mãi không hết, song vì một niệm bất giác chợt dấy lên, nên đành quên đi, để trôi dạt theo dòng thức sanh diệt và đuổi bắt những pháp hư ảo bên ngoài, đến nỗi phải nhọc nhằn lăn lộn trong ba đường, sáu nẻo, lên xuống không ngừng. Càng theo cái sanh diệt hư huyễn thì càng xa cái chân thật vô sanh, tức càng ngày càng xa quê hương chính mình. Cảm sâu ý nghĩa này, Vua Trần Thái Tông đã nói trong bài kệ NÚI THỨ NHẤT, sách Khóa Hư Lục:

Chân tể huân đào vạn tượng thành,
Bản lai phi triệu hựu phi manh.
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Tạm dịch:

Trời đất nấu nung vạn tượng thành,
Xưa nay không móng cũng không manh.
Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền trái không sanh nhận có sanh.
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai.
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.
(Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch)

Muôn tượng muôn vật giữa thế gian nầy vốn không có đầu mối, không do ai làm ra cả, mà chỉ do trời đất, âm dương nấu nung, chuyển hóa ngưng đọng mà hiện thành. Đây là ngầm ý nói, mọi vật do mê mà hiện, thật không có mối manh sanh ra. Tức ngay khi sanh là không sanh. Bởi vậy, con người vốn ở trong thể không niệm, không sanh, nhưng vừa chợt có niệm khởi liền sai đi, ngay đó trái với thể không sanh mà nhận lấy có niệm, có sanh. Đó là trôi dạt theo dòng sanh diệtkinh Lăng Nghiêm gọi là "vốn ở trong thể thanh tịnh sẵn như vậy, mà bỗng dưng phát sanh núi sông, quả đất" (thanh tịnh bản nhiên hốt sanh sơn hà đại địa). Chính ở một niệm khởi này, nên đành trái với cội nguồn không sanh, bỏ mất chân thể hằng hữu, mà đi xa dần, xa dần trong kiếp sanh tử. Rồi mũi đắm theo các mùi hương, lưỡi tham lấy nơi vị, mắt bị mờ với các sắc, tai thì mê bởi những tiếng, tức là sáu căn chạy đuổi theo sáu trần, bị nó lôi đi mãi, quên mất cả đường về. Vì vậy mới nói rằng, làm khách phong trần lang thang mãi, mỗi ngày mỗi ngày càng đi xa quê hương không biết bao nhiêu dặm trình mà kể. Nghĩ lại có thật đáng thương cho mình chăng? Đó là nói chúng ta đã bỏ mất quê hương chân thật sáng ngời muôn thuở mà đi nhận lấy những bóng dáng hư huyễn chập chờn trên đường trần ai mê muội, rồi vui theo những cái vui tạm bợ, chợt có chợt không, nên chưa bao giờ biết được niềm vui bất diệt tại quê nhà. Chính vì thế, Đức Phật mới ra đời để đánh thức chúng ta nhớ lại. Chư Tổ ra đời, dùng mọi cách để khơi dậy chỗ này. Vậy thì, bây giờ chúng ta làm sao trở về ? Và biết đâu là con đường trở về ?

Các Tổ thường nói: "Nhân đất té, phải nhân đất mà đứng dậy". Chính từ chỗ mình mê đó, cũng chính là chỗ mình quay trở về chứ không đâu khác. Kinh Lăng Nghiêm, khi Ngài A-nan hỏi Phật về nghĩa trói và mở, thì chẳng phải một Đức Phật Thích Ca, mà mười phương chư Phật đồng phóng quang đến thế giới này, đồng bảo Ngài A-nan: "Ông muốn biết cội gốc vô minh là đầu gút khiến cho ông luân hồi sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không vật gì khác. Ông muốn biết tánh Vô thượng Bồ-đề, khiến ông mau chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường, cũng là sáu căn của ông chứ không vật gì khác." Nói đơn giản, chính sáu căn là gốc sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc giải thoát Niết-bàn. Đây là điểm rất quan trọng, chúng ta nghiệm xét kỹ, sẽ thấy con đường giải thoát ngay trước mắt đây thôi, chứ không xa lạ tận nơi nào như mình thường tưởng tượng.

Chính lâu nay, chúng ta từ nơi sáu căn thấy nghe, hiểu, biết chạy đuổi duyên theo sáu trần mà dẫn mình đi trong luân hồi, tạo nghiệp không lường. Giờ đây, cũng ngay sáu căn đó, mình biết xoay trở lại, không chạy theo sáu trần nữa, tức là con đường trở về chứ gì. Bằng chứng là trong kinh Lăng Nghiêm, khi Phật bảo các vị Thánh thuật lại chỗ chứng ngộ của mình để Ngài Văn Thù chọn căn viên thông, thì trong hai mươi lăm vị Thánh thuật lại đó, đều không ngoài sáu căn, sáu trần, sáu thức mà chứng viên thông, trừ bảy vị từ nơi bảy đại. Điều đó cho thấy rõ là, ngay nơi sáu cửa này đều có đủ con đường trở về để chứng ngộ viên thông. Đó là trong kinh, bước qua trong nhà Thiền cũng không thiếu gì trường hợp các Thiền sư tỏ ngộ từ nơi sáu căn.

1. Thiền sư Linh HựuQuy Sơn. Khi còn ở với Tổ Bá Trượng, một hôm Sư đứng hầu. Bá Trượng, Bá Trượng hỏi:
- Ai ?
Sư thưa:
- Con Linh Hựu!
Bá Trượng bảo:
- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?
Sư vạch ra, thưa.
- Không lửa.
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:
- Ngươi bảo không, cái này là cái gì?
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.

Ngay khi Tổ Bá Trượng cầm chút lửa đưa lên bảo Ngài Linh Hựu: "Ngươi bảo không, cái nầy là cái gì?" Đó là Tổ mở cửa con mắt đưa Sư vào. Và Sư cũng thật lanh lợi chụp ngay cơ hội vào liền, không để lỡ mất.

2. Thiền sư Hy VậnHoàng Bá. Lúc Sư trụ trì chùa Đại An ở Hồng Châu. Có lần Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy Trụ trì:
- Vẽ cái gì đây?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vẽ hình cao tăng.
Bùi Hưu hỏi:
- Hình có thể thấy, cao tăng ở đâu?
Thầy Trụ trì không đáp được. Bùi Hưu hỏi:
- Trong đây có Thiền nhân chăng?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vừa có một vị tăng vào chùa đang làm việc, in tuồng thiền giả.
Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói.
- Hưu vừa có một hỏi, chư Đức tiếc lời, giờ thỉnh thiền nhân đáp thế một câu.
Sư bảo:
- Mời Tướng công hỏi lại.
Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước. Sư dùng tiếng trong thanh gọi:
- Bùi Hưu!
Bùi Hưu:
- Dạ!
Sư bảo:
- Ở chỗ nào?
Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ, như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ.

Đây là Ngài Hoàng Bá mở cửa lỗ tai và Bùi Hưu cũng kịp thời thẳng vào, liền thấy thật tướng cao tănghiện tiền. Thật sung sướng biết mấy!

3. Thái sử Hoàng Đình Kiên đến nương theo Hối Đường, Hối Đường bảo:
- Như Khổng Tử nói: "Này các trò! Cho ta là giấu giếm ư? Ta không có giấu giếm gì các trò cả",
Thái sử căn cứ vào đâu mà lý luận?
Ông suy nghĩ để đáp. Hối Đường bảo:
- Chẳng đúng! Chẳng đúng!
Ông càng thêm mê muội.
Một hôm, ông theo hầu Hối Đường đi dạo núi. Bấy giờ hoa quế rụng đầy đất, Hối Đường mới hỏi:
- Ông có ngửi thấy mùi thơm hoa quế chăng?
- Ngửi thấy.
Hối Đường bảo:
- Ta không có giấu giếm gì ông cả.
Ông chợt tỉnh, liền lễ bái thưa:
- Hòa thượng thật là tâm thiết tha của lão bà.
Hối Đường cười nói:
- Chỉ cần ông về đến nhà mà thôi.

Trong đây thì Ngài Hối Đường mở cửa lỗ mũi đưa ông Hoàng Đình Kiên vào, và ông cũng đúng lúc vào ngay, quên đi một thời lang thang làm khách phong trần.

4. Thiền sư Huệ HảiĐại Châu. Lúc đầu Sư đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:

- Từ đâu đến ?
Sư thưa:
- Ở Việt Châu, chùa Đại Vân đến.
- Đến đây cầu việc gì ?
- Đến cầu Phâït pháp.
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì ?
lễ bái, thưa:
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải ?
- Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Ngay câu này, Sư tự nhận bổn tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ.

Ở đây thì Mã Tổ mở cửa cái lưỡi đưa Ngài Huệ Hải vào. Ngài Huệ Hải cũng không chút chần chờ nhảy vào ngay, liền tự nhận ra kho báu nhà mình xưa nay vẫn đầy đủ, chưa từng thiếu thốn bao giờ, mà bấy lâu nay đành nhọc nhằn làm kẻ cùng tử lang thang!

5. Thiền sư Văn YểnVân Môn. Lúc Sư đến Mục Châu tham vấn Trần Tôn Túc, vừa thấy Sư đến, Tôn Túc liền đóng cửa. Sư gõ cửa, Tôn Túc hỏi: "Ai?" Sư thưa: "Con." Tôn Túc hỏi: "Làm gì?" Sư thưa: "Việc mình chưa sáng, xin thầy chỉ dạy." Tôn Túc mở cửa, vừa trông thấy Sư liền đóng cửa lại. Như thế liên tiếp 3 ngày. Ngày thứ 3, Tôn Túc vừa mở cửa, Sư liền chen vào. Tôn Túc nắm đứng bảo: "Nói! Nói!" Sư suy nghĩ. Tôn Túc liền xô ra, nói: "Cây dùi đời Tần". Rồi đóng sầm cửa lại, kẹt nát bàn chân Sư. Cái đau thấu xương ấy khiến Sư ngộ nhập.

Đến đây, trường hợp hơi đặc biệt. Ngài Trần Tôn Túc bạo dạn mở cửa thân cho Ngài Văn Yển vào, và Ngài Văn Yển cũng khéo vào. Mới nhìn qua thấy Ngài Trần Tôn Túc như tàn nhẫn, nhưng chính cái đau đó khiến Ngài Văn Yển nhớ mãi không quên, chuyển xúc giác thành chánh giác.

6. Thiền sư Kỉnh Huyền ở Đại Dương. Lúc Sư đi du phương, trước đến Lương Sơn chỗ Thiền sư Duyên Quán.
Sư hỏi:
- Thế nào là đạo tràng vô tướng ?
Lương Sơn chỉ Bồ-tát Quán Âm nói:
- Cái này là do Ngô Xử Sĩ vẽ.
suy nghĩ để tiến ngữ, Lương Sơn nhanh nhẩu nói:
- Cái này có tướng, cái kia không tướng.
Sư nhân đó tỉnh ngộ, liền lễ bái.

Chỗ này hơi khó thấy. Thiền sư Duyên Quán khéo mở cửa ý đưa Ngài Kỉnh Huyền vào đạo tràng vô tướng. Ngài Kỉnh Huyền cũng nhanh như chớp thẳng vào, nếu chậm một chút, đã theo cái suy nghĩ đi xa mấy ngàn dặm rồi.

Như vậy, để thấy rõ rằng, ngay trên đường mê chính là đường giác, lối về là đây. Như lời dẫn trong mục "Thấy trâu" của Tranh Chăn Trâu đã nói: "Từ tiếng được vào, chỗ thấy liền đúng. Cửa sáu căn rành rõ không sai, trong động dụng đành rành hiển lộ. Chất muối trong nước, sắc xanh trong keo. Vén chân mày lên chẳng phải vật khác".

Khi mê thì cũng "Thấy nghe" này mà mờ tối. Lúc giác cũng "Thấy nghe" này mà sáng ngời. Tức là con trâu tâm luôn hiển lộ rõ ràng nơi cửa sáu căn và trong mọi động dụng hằng ngày không chút gì nghi ngờ. Hay nói ngược lại, muốn gặp con trâu tâm, phải ngay cửa sáu căn và trong mọi cử chỉ, hành động đó, khéo nhận ra thôi, chứ không đâu khác. Như Ngài Sùng Tín hầu Thiền sư Đạo Ngộ một thời gian lâu. Một hôm, Sư thưa:

- Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu.
Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy ngươi tâm yếu.
- Chỉ dạy ở chỗ nào ?
- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu ?
Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo:
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó, Sư khai ngộ.

Quả thật, chính ngay chỗ động dụng hằng ngày, bưng cơm, dâng trà, xá chào v.v... luôn luôn hiển lộ ánh sáng chân thật không một phút giây nào thiếu sót, vậy mà chúng ta có bao giờ nhớ biết đâu!

Bởi vậy, chư Tổ thường bảo là "thật tự đáng thương thay!". Cũng như trong nước biển vốn có chất muối, nếu người khéo biết, liền dẫn nước biển vào ruộng để cho bốc hơi, tức có muối dùng. Chúng ta nhận biết rõ ngay cửa sáu căn vốn có "thể chân thật" hằng hiển lộ, khéo dùng phương tiện tiến tu, thường soi trở lại không chạy theo sáu trần, thì sẽ sống được với thể chân thật, có đủ diệu dụng vượt thoát sanh tử, làm chủ muôn pháp tự tại. Đây là một sự thật trăm phần trăm, chỉ cần chúng ta vén chân mày lên, mở mắt ra, thì nó "rõ ràng sáng rỡ", không phải vật gì khác đáng nghi ngờ!
Cho nên, lâu nay chúng ta cứ than là đã bị trầm luân từ vô thủy, hết kiếp này đến kiếp khác lăn lộn mãi trong đường luân hồi, không biết đâu là lối ra. Thì đây, lối ra đã mở, đường về đã hiện, chỉ còn đợi chúng ta cất bước đi hay không thôi. Đi, thì ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền trở về. Lừng chừng, thì cũng ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền bị trôi giạt. Chân lý quả thật sáng ngời trước mắt, quá gần gũi với chúng ta vô cùng, chớ không phải ở xa tận phương trời đâu đâu, qua mấy muôn ngàn thế giới khiến chúng ta không bao giờ dám nghĩ tới. Chỉ một điều, vừa động niệm tức thân ở tại quê người. Vô niệm thì ngồi tại quê nhà cười ngất! Đường trở về là đấy!

TT Thích Thông Phương (Thiền viện Thường Chiếu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8801)
Trong đạo Phật nguyên thủy Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên để chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người.
(Xem: 9789)
Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của bản thângia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy.
(Xem: 9564)
Theo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật...
(Xem: 10592)
Rất lạ là có nhiều người không biết thương chính bản thân. Có lẽ do họ nghĩ rằng thương yêu chính bản thân là điều dễ làm nhất trên đời nầy, vì ai cũng lo cho mình là trước nhất.
(Xem: 9402)
Mùa mưa đến, chư Tăng Ni đều y theo lời Phật thực hành an cư. Đạo tràng an cư tu học thanh tịnh tất yếu nhờ ơn ngoại hộ của các thí chủ
(Xem: 10172)
Đức Phật dạy rằng phá thai chính là lấy đi mạng sống của một con người, đây là một lỗi lầm rất nghiêm trọng.
(Xem: 12131)
Lý tưởng Bồ tát đạo là một danh từ chung cho những ai có tâm xã kỷ vị tha (quên mình vì người).
(Xem: 10353)
Ta chỉ cần trở về với sự tĩnh lặng trong sáng sẵn có, buông bỏ những mong cầu của mình, và mở rộng lòng ra tiếp nhận những gì xảy ra với một tình thương.
(Xem: 9403)
Dòng sinh tử, tử sinh được gọi là Luân Hồi. Cái bánh xe quay vòng vòng chẳng tìm ra đâu là khởi điểm, đâu là dứt điểm.
(Xem: 10842)
Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Xem: 14348)
Theo Phật học thì “hãy xem lá đa rụng ở vườn chùa như là những phiền não tham lam, sân hận, si mê nơi chính vườn tâm mình, quét lá và rác rưởi cũng chính là quét đi những cấu bẩn của tự tâm...
(Xem: 8805)
Người tu Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù tu theo bất cứ pháp môn nào thì tâm tịnh và trí sáng là mục tiêu quan trọng cần phải đạt được trong đời sống tu hành.
(Xem: 10345)
Đại từ Đại bi thương chúng sanh, Đại hỷ Đại xả cứu muôn loài...
(Xem: 9111)
Đời sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân duyên được hỗn hợp, bao gồm cả tốt lẫn xấu. Nếu chúng ta chỉ yêu thích cái tốt, ghét cái xấu, thì đời sống tinh thần của mình sẽ trào dâng cảm xúc vui buồn mà thành ra có khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc.
(Xem: 8998)
Tục ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Câu nói này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi vì...
(Xem: 28771)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới.
(Xem: 16147)
Trời thu lạnh nhưng đạo tình ấm ápPhó hội về Quảng Đức để tuyên dươngĐại Hội năm (V) Phật Giáo Việt lệ thườngCứ bốn năm có một lần khoáng đại…
(Xem: 9904)
Thưa mẹ, mẹ có biết không, thời gian, không gian làm cho con run sợ và phẫn uất. Đó là những biên giới đã phân chia tất cả, đã ngăn cách tất cả và làm cho con người lẻ loi và cuộc sống bơ vơ.
(Xem: 11620)
Sự hiện hữu của con trong cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao của bố mẹ. Bởi tình yêu thương vô hạn, bố mẹ sẵn lòng làm tất cả để dành cho con những gì tốt đẹp nhất.
(Xem: 9786)
Ở đây không thể phủ nhận có một vài wedsite Phật giáo trong và ngoài nước đã làm được điều mà bài viết này rất muốn được xem đó là tấm gương soi chung...
(Xem: 9457)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ.
(Xem: 9188)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế.
(Xem: 10629)
Đôi mắt người thương kẻ nhớ đôi mắt lo sợ bất an đôi mắt chứa đầy buồn vui, đôi mắt nhìn đời với toàn màu hồng choáng ngợp hạnh phúc...
(Xem: 12364)
Vì không có hiện tượng nào Là không duyên sinh Nên không có hiện tượng nào là không Trống rỗng sự tồn tại cố hữu
(Xem: 9886)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng là một những Đạo sư Phật Giáo vĩ đại của thế giới hiện tại...
(Xem: 11534)
Tăng li chúng tăng tàn ắt hẳn không thể là sự quy kết một thành viên tăng chỉ xa lìa đại chúng là bị tàn lụi bị hủy diệt, mà đúng hơn là thành viên đó rời khỏi sự thanh tịnhhòa hợp của chúng tăng...
(Xem: 12053)
Người theo Phật gia đem tâm quyết từ bỏ những nguy hiểm của dòng nước, muốn đi trên bề mặt của dòng nước chứ không để nó thấm ướt gót chân mình.
(Xem: 9727)
Nếu quan điềm sai lầm rằng con người và sự vật tồn tại một cách độc lậpnguyên nhân của tất cả những quan điểmcảm xúc ẩn tàng chướng ngại...
(Xem: 9853)
Trong một lần dừng chân tại thị trấn nhỏ dưới rặng núi Cascade, khi tiếp xúc người dân địa phương để tìm hiểu đặc chủng nấm trong vùng...
(Xem: 9977)
Tâm giác ngộ nguyện vọng là mong ước mạnh mẽ để vượt thắng những khuyết điểm của chúng tanhận ra những tiềm lực của chúng ta để làm lợi ích cho mọi người.
(Xem: 12407)
Tâm kinh Bát-nhã có thể xem là bản kinh văn ngắn nhất trong kinh hệ Bát-nhã vì đề cập đến tinh yếu của tư tưởng Bát-nhã chỉ với chưa đầy một trang kinh.
(Xem: 9862)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt.
(Xem: 15743)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 14151)
Dòng đời trôi như dòng sông với thuyền bè xuôi ngược. Lênh đênh trong dòng tử sanh có lắm thứ vui buồn, hạnh phúc thì ít nhưng khổ đau và hiểm nguy lại nhiều.
(Xem: 11985)
Cơn giận có nhiều hình thức. Nó len lén nổi lên trong ta. Trước hết là sự mất kiên nhẫn, rồi thì nóng nảy, bực bội, giận dũ và cuối cùng là thù hận.
(Xem: 10094)
Đức từ phụ Thích-ca Mâu-ni vì lòng đại bi xuất thế, Phật nhật huy hoàng, xua tan màn đêm của vô minh, làm thuyền cứu vớt chúng sanh thoát khỏi ái hà.
(Xem: 10133)
Sống được với lòng bi, chúng ta sẽ cởi mở cuộc sống hạn hẹp của mình trở nên rộng lớn hơn, sâu thẳm hơn.
(Xem: 10126)
Tu hành muốn thành công hẳn ai cũng biết phước và trí đều phải đầy đủ, trang nghiêm.
(Xem: 10690)
Cầu nguyện bình an, phúc lộc đầu xuân là nét văn hóa tín ngưỡng, tâm linh đậm chất nhân văn của tất cả những người con Phật.
(Xem: 9540)
Trong niềm tịnh tín Tam bảo, tin Tăng có vai trò rất quan trọng. Nhờ thâm tín Tăng bảo nên nương tựa tu họcdần dần tăng thêm tin hiểu vào Pháp bảoPhật bảo.
(Xem: 10185)
Kinh Phật có câu “tướng tự tâm sanh” tức dáng vẻ, dung mạo bên ngoài của mình từ nội tâm ở bên trong lưu xuất.
(Xem: 11173)
“Tình dục như một vết ngứa, thà không có vết ngứa ấy thì hơn. Nếu không, chúng ta phải cào đến xước da và chảy máu.”
(Xem: 10600)
Chỉ cần dừng lại tâm ô nhiễm thì điểm tới thanh tịnh hiển bày, dừng tâm sân si thì Cực Lạc quốc độ ngay dưới bước chân ta.
(Xem: 10567)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng: “Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”, nghĩa là: “Sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”.
(Xem: 10503)
Nếu không có Phật, không có giáo lý Ngài hướng dẫn, có lẽ tôi đã tạo tội bằng non. Nhờ Ngài, tôi biết phân biệt thiện ác...
(Xem: 12667)
Chúng ta lỡ hẹn với giây phút hiện tại này không phải vì mình chần chờ, do dự, mà phần lớn cũng tại vì mình cố gắng và mong cầu quá đi thôi.
(Xem: 11103)
Theo bình chọn của tạp chí Forbes, gia tài của ông trị giá khoảng 7,6 tỷ đô la (USD). Ông còn là người chuyên làm từ thiện nhưng lại có một cuộc sống rất bình dị.
(Xem: 8768)
Khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản...
(Xem: 10224)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần
(Xem: 11079)
Tất cả những lời giáo huấn của Đức Phật được hướng tới việc đạt đến giải thoát khỏi vòng sinh tử
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant