Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đường Trở Về

30 Tháng Giêng 201618:59(Xem: 8920)
Đường Trở Về

ĐƯỜNG TRỞ VỀ

Thích Thông Phương

Đường Trở Về


Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa chắc rằng không thể quên câu chuyện: đứa con ông Trưởng giả bỏ cha đi lưu lạc lang thang, làm gã cùng tử thật đáng thương. Từ địa vị là con một ông Trưởng giả giàu có, gia tài, sự sản không thể tính kể, đó là một kho tàng mà mình sẽ thừa hưởng chứ không ai khác; nhưng đành bỏ đi lang thang, ăn mày từ nơi này sang nơi khác, đến nỗi mỗi ngày càng xa quê cũ. Rồi trong một giây phút nào đó, trên bước đường lưu lạc đó đây, bỗng dưng gã ăn xin lần lượt trở về đúng vào ngôi nhà xưa ấy, gặp ngay người cha ấy, nhưng nào có hay biết, vì đã quên mất cội gốc của mình từ lâu.

Đã tự mang mặc cảm mình là kẻ ăn mày lang thang không ra gì, thì đối với một người cha giàu có, sang trọng như vua chúa kia bao giờ dám ngó đến, nói chi là nhận đó làm cha. Đọc câu chuyện trên, chúng ta cảm thấy thương tiếc cho gã cùng tử đó vô cùng! Song xét lại, chúng ta ngày nay có khác gì với gã cùng tử kia! Mỗi người chúng ta hiện nay, đâu không phải là kẻ đang thừa kế một gia sản vô vàn trân quý, mà đành bỏ đi lang thang trong khắp nẻo luân hồi, làm khách phong trần đói khát, khổ sở !

Điều đó không có gì lạ, bởi chúng ta ai ai cũng có đủ một ông cha "chẳng sanh chẳng diệt", với một kho tàng "công đức trí tuệ vô biên", dùng mãi không hết, song vì một niệm bất giác chợt dấy lên, nên đành quên đi, để trôi dạt theo dòng thức sanh diệt và đuổi bắt những pháp hư ảo bên ngoài, đến nỗi phải nhọc nhằn lăn lộn trong ba đường, sáu nẻo, lên xuống không ngừng. Càng theo cái sanh diệt hư huyễn thì càng xa cái chân thật vô sanh, tức càng ngày càng xa quê hương chính mình. Cảm sâu ý nghĩa này, Vua Trần Thái Tông đã nói trong bài kệ NÚI THỨ NHẤT, sách Khóa Hư Lục:

Chân tể huân đào vạn tượng thành,
Bản lai phi triệu hựu phi manh.
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Tạm dịch:

Trời đất nấu nung vạn tượng thành,
Xưa nay không móng cũng không manh.
Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền trái không sanh nhận có sanh.
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai.
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.
(Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch)

Muôn tượng muôn vật giữa thế gian nầy vốn không có đầu mối, không do ai làm ra cả, mà chỉ do trời đất, âm dương nấu nung, chuyển hóa ngưng đọng mà hiện thành. Đây là ngầm ý nói, mọi vật do mê mà hiện, thật không có mối manh sanh ra. Tức ngay khi sanh là không sanh. Bởi vậy, con người vốn ở trong thể không niệm, không sanh, nhưng vừa chợt có niệm khởi liền sai đi, ngay đó trái với thể không sanh mà nhận lấy có niệm, có sanh. Đó là trôi dạt theo dòng sanh diệtkinh Lăng Nghiêm gọi là "vốn ở trong thể thanh tịnh sẵn như vậy, mà bỗng dưng phát sanh núi sông, quả đất" (thanh tịnh bản nhiên hốt sanh sơn hà đại địa). Chính ở một niệm khởi này, nên đành trái với cội nguồn không sanh, bỏ mất chân thể hằng hữu, mà đi xa dần, xa dần trong kiếp sanh tử. Rồi mũi đắm theo các mùi hương, lưỡi tham lấy nơi vị, mắt bị mờ với các sắc, tai thì mê bởi những tiếng, tức là sáu căn chạy đuổi theo sáu trần, bị nó lôi đi mãi, quên mất cả đường về. Vì vậy mới nói rằng, làm khách phong trần lang thang mãi, mỗi ngày mỗi ngày càng đi xa quê hương không biết bao nhiêu dặm trình mà kể. Nghĩ lại có thật đáng thương cho mình chăng? Đó là nói chúng ta đã bỏ mất quê hương chân thật sáng ngời muôn thuở mà đi nhận lấy những bóng dáng hư huyễn chập chờn trên đường trần ai mê muội, rồi vui theo những cái vui tạm bợ, chợt có chợt không, nên chưa bao giờ biết được niềm vui bất diệt tại quê nhà. Chính vì thế, Đức Phật mới ra đời để đánh thức chúng ta nhớ lại. Chư Tổ ra đời, dùng mọi cách để khơi dậy chỗ này. Vậy thì, bây giờ chúng ta làm sao trở về ? Và biết đâu là con đường trở về ?

Các Tổ thường nói: "Nhân đất té, phải nhân đất mà đứng dậy". Chính từ chỗ mình mê đó, cũng chính là chỗ mình quay trở về chứ không đâu khác. Kinh Lăng Nghiêm, khi Ngài A-nan hỏi Phật về nghĩa trói và mở, thì chẳng phải một Đức Phật Thích Ca, mà mười phương chư Phật đồng phóng quang đến thế giới này, đồng bảo Ngài A-nan: "Ông muốn biết cội gốc vô minh là đầu gút khiến cho ông luân hồi sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không vật gì khác. Ông muốn biết tánh Vô thượng Bồ-đề, khiến ông mau chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường, cũng là sáu căn của ông chứ không vật gì khác." Nói đơn giản, chính sáu căn là gốc sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc giải thoát Niết-bàn. Đây là điểm rất quan trọng, chúng ta nghiệm xét kỹ, sẽ thấy con đường giải thoát ngay trước mắt đây thôi, chứ không xa lạ tận nơi nào như mình thường tưởng tượng.

Chính lâu nay, chúng ta từ nơi sáu căn thấy nghe, hiểu, biết chạy đuổi duyên theo sáu trần mà dẫn mình đi trong luân hồi, tạo nghiệp không lường. Giờ đây, cũng ngay sáu căn đó, mình biết xoay trở lại, không chạy theo sáu trần nữa, tức là con đường trở về chứ gì. Bằng chứng là trong kinh Lăng Nghiêm, khi Phật bảo các vị Thánh thuật lại chỗ chứng ngộ của mình để Ngài Văn Thù chọn căn viên thông, thì trong hai mươi lăm vị Thánh thuật lại đó, đều không ngoài sáu căn, sáu trần, sáu thức mà chứng viên thông, trừ bảy vị từ nơi bảy đại. Điều đó cho thấy rõ là, ngay nơi sáu cửa này đều có đủ con đường trở về để chứng ngộ viên thông. Đó là trong kinh, bước qua trong nhà Thiền cũng không thiếu gì trường hợp các Thiền sư tỏ ngộ từ nơi sáu căn.

1. Thiền sư Linh HựuQuy Sơn. Khi còn ở với Tổ Bá Trượng, một hôm Sư đứng hầu. Bá Trượng, Bá Trượng hỏi:
- Ai ?
Sư thưa:
- Con Linh Hựu!
Bá Trượng bảo:
- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?
Sư vạch ra, thưa.
- Không lửa.
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:
- Ngươi bảo không, cái này là cái gì?
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.

Ngay khi Tổ Bá Trượng cầm chút lửa đưa lên bảo Ngài Linh Hựu: "Ngươi bảo không, cái nầy là cái gì?" Đó là Tổ mở cửa con mắt đưa Sư vào. Và Sư cũng thật lanh lợi chụp ngay cơ hội vào liền, không để lỡ mất.

2. Thiền sư Hy VậnHoàng Bá. Lúc Sư trụ trì chùa Đại An ở Hồng Châu. Có lần Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy Trụ trì:
- Vẽ cái gì đây?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vẽ hình cao tăng.
Bùi Hưu hỏi:
- Hình có thể thấy, cao tăng ở đâu?
Thầy Trụ trì không đáp được. Bùi Hưu hỏi:
- Trong đây có Thiền nhân chăng?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vừa có một vị tăng vào chùa đang làm việc, in tuồng thiền giả.
Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói.
- Hưu vừa có một hỏi, chư Đức tiếc lời, giờ thỉnh thiền nhân đáp thế một câu.
Sư bảo:
- Mời Tướng công hỏi lại.
Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước. Sư dùng tiếng trong thanh gọi:
- Bùi Hưu!
Bùi Hưu:
- Dạ!
Sư bảo:
- Ở chỗ nào?
Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ, như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ.

Đây là Ngài Hoàng Bá mở cửa lỗ tai và Bùi Hưu cũng kịp thời thẳng vào, liền thấy thật tướng cao tănghiện tiền. Thật sung sướng biết mấy!

3. Thái sử Hoàng Đình Kiên đến nương theo Hối Đường, Hối Đường bảo:
- Như Khổng Tử nói: "Này các trò! Cho ta là giấu giếm ư? Ta không có giấu giếm gì các trò cả",
Thái sử căn cứ vào đâu mà lý luận?
Ông suy nghĩ để đáp. Hối Đường bảo:
- Chẳng đúng! Chẳng đúng!
Ông càng thêm mê muội.
Một hôm, ông theo hầu Hối Đường đi dạo núi. Bấy giờ hoa quế rụng đầy đất, Hối Đường mới hỏi:
- Ông có ngửi thấy mùi thơm hoa quế chăng?
- Ngửi thấy.
Hối Đường bảo:
- Ta không có giấu giếm gì ông cả.
Ông chợt tỉnh, liền lễ bái thưa:
- Hòa thượng thật là tâm thiết tha của lão bà.
Hối Đường cười nói:
- Chỉ cần ông về đến nhà mà thôi.

Trong đây thì Ngài Hối Đường mở cửa lỗ mũi đưa ông Hoàng Đình Kiên vào, và ông cũng đúng lúc vào ngay, quên đi một thời lang thang làm khách phong trần.

4. Thiền sư Huệ HảiĐại Châu. Lúc đầu Sư đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:

- Từ đâu đến ?
Sư thưa:
- Ở Việt Châu, chùa Đại Vân đến.
- Đến đây cầu việc gì ?
- Đến cầu Phâït pháp.
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì ?
lễ bái, thưa:
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải ?
- Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Ngay câu này, Sư tự nhận bổn tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ.

Ở đây thì Mã Tổ mở cửa cái lưỡi đưa Ngài Huệ Hải vào. Ngài Huệ Hải cũng không chút chần chờ nhảy vào ngay, liền tự nhận ra kho báu nhà mình xưa nay vẫn đầy đủ, chưa từng thiếu thốn bao giờ, mà bấy lâu nay đành nhọc nhằn làm kẻ cùng tử lang thang!

5. Thiền sư Văn YểnVân Môn. Lúc Sư đến Mục Châu tham vấn Trần Tôn Túc, vừa thấy Sư đến, Tôn Túc liền đóng cửa. Sư gõ cửa, Tôn Túc hỏi: "Ai?" Sư thưa: "Con." Tôn Túc hỏi: "Làm gì?" Sư thưa: "Việc mình chưa sáng, xin thầy chỉ dạy." Tôn Túc mở cửa, vừa trông thấy Sư liền đóng cửa lại. Như thế liên tiếp 3 ngày. Ngày thứ 3, Tôn Túc vừa mở cửa, Sư liền chen vào. Tôn Túc nắm đứng bảo: "Nói! Nói!" Sư suy nghĩ. Tôn Túc liền xô ra, nói: "Cây dùi đời Tần". Rồi đóng sầm cửa lại, kẹt nát bàn chân Sư. Cái đau thấu xương ấy khiến Sư ngộ nhập.

Đến đây, trường hợp hơi đặc biệt. Ngài Trần Tôn Túc bạo dạn mở cửa thân cho Ngài Văn Yển vào, và Ngài Văn Yển cũng khéo vào. Mới nhìn qua thấy Ngài Trần Tôn Túc như tàn nhẫn, nhưng chính cái đau đó khiến Ngài Văn Yển nhớ mãi không quên, chuyển xúc giác thành chánh giác.

6. Thiền sư Kỉnh Huyền ở Đại Dương. Lúc Sư đi du phương, trước đến Lương Sơn chỗ Thiền sư Duyên Quán.
Sư hỏi:
- Thế nào là đạo tràng vô tướng ?
Lương Sơn chỉ Bồ-tát Quán Âm nói:
- Cái này là do Ngô Xử Sĩ vẽ.
suy nghĩ để tiến ngữ, Lương Sơn nhanh nhẩu nói:
- Cái này có tướng, cái kia không tướng.
Sư nhân đó tỉnh ngộ, liền lễ bái.

Chỗ này hơi khó thấy. Thiền sư Duyên Quán khéo mở cửa ý đưa Ngài Kỉnh Huyền vào đạo tràng vô tướng. Ngài Kỉnh Huyền cũng nhanh như chớp thẳng vào, nếu chậm một chút, đã theo cái suy nghĩ đi xa mấy ngàn dặm rồi.

Như vậy, để thấy rõ rằng, ngay trên đường mê chính là đường giác, lối về là đây. Như lời dẫn trong mục "Thấy trâu" của Tranh Chăn Trâu đã nói: "Từ tiếng được vào, chỗ thấy liền đúng. Cửa sáu căn rành rõ không sai, trong động dụng đành rành hiển lộ. Chất muối trong nước, sắc xanh trong keo. Vén chân mày lên chẳng phải vật khác".

Khi mê thì cũng "Thấy nghe" này mà mờ tối. Lúc giác cũng "Thấy nghe" này mà sáng ngời. Tức là con trâu tâm luôn hiển lộ rõ ràng nơi cửa sáu căn và trong mọi động dụng hằng ngày không chút gì nghi ngờ. Hay nói ngược lại, muốn gặp con trâu tâm, phải ngay cửa sáu căn và trong mọi cử chỉ, hành động đó, khéo nhận ra thôi, chứ không đâu khác. Như Ngài Sùng Tín hầu Thiền sư Đạo Ngộ một thời gian lâu. Một hôm, Sư thưa:

- Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu.
Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy ngươi tâm yếu.
- Chỉ dạy ở chỗ nào ?
- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu ?
Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo:
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó, Sư khai ngộ.

Quả thật, chính ngay chỗ động dụng hằng ngày, bưng cơm, dâng trà, xá chào v.v... luôn luôn hiển lộ ánh sáng chân thật không một phút giây nào thiếu sót, vậy mà chúng ta có bao giờ nhớ biết đâu!

Bởi vậy, chư Tổ thường bảo là "thật tự đáng thương thay!". Cũng như trong nước biển vốn có chất muối, nếu người khéo biết, liền dẫn nước biển vào ruộng để cho bốc hơi, tức có muối dùng. Chúng ta nhận biết rõ ngay cửa sáu căn vốn có "thể chân thật" hằng hiển lộ, khéo dùng phương tiện tiến tu, thường soi trở lại không chạy theo sáu trần, thì sẽ sống được với thể chân thật, có đủ diệu dụng vượt thoát sanh tử, làm chủ muôn pháp tự tại. Đây là một sự thật trăm phần trăm, chỉ cần chúng ta vén chân mày lên, mở mắt ra, thì nó "rõ ràng sáng rỡ", không phải vật gì khác đáng nghi ngờ!
Cho nên, lâu nay chúng ta cứ than là đã bị trầm luân từ vô thủy, hết kiếp này đến kiếp khác lăn lộn mãi trong đường luân hồi, không biết đâu là lối ra. Thì đây, lối ra đã mở, đường về đã hiện, chỉ còn đợi chúng ta cất bước đi hay không thôi. Đi, thì ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền trở về. Lừng chừng, thì cũng ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền bị trôi giạt. Chân lý quả thật sáng ngời trước mắt, quá gần gũi với chúng ta vô cùng, chớ không phải ở xa tận phương trời đâu đâu, qua mấy muôn ngàn thế giới khiến chúng ta không bao giờ dám nghĩ tới. Chỉ một điều, vừa động niệm tức thân ở tại quê người. Vô niệm thì ngồi tại quê nhà cười ngất! Đường trở về là đấy!

TT Thích Thông Phương (Thiền viện Thường Chiếu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12755)
Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm...
(Xem: 14865)
Tư Lợi có ba cô gái đang xuân tuổi từ 24 đến 30, đều xuất thân đại học, đều có việc làm tốt tại San Jose, California, đứa nào cũng theo nếp sống Âu Mỹ giao du rộng rãi...
(Xem: 17267)
Tuổi thơ là những tối mùa hè cùng chị gái nằm trên trần đếm sao. Đếm mãi không hết, đếm đến tận bây giờ.
(Xem: 56311)
Dẫu cả thế giới quay lưng với bạn thì bạn cũng đừng vội quay lưng với mình. Đừng hết yêu đời, đừng nhìn đời bằng màu đen...
(Xem: 15319)
Khi thấy một con kiến đang bò, hãy thử lấy ngón tay chặn, sẽ thấy nó cuống cuồng quay lui, tìm đường chạy. Có phải vì nó cũng biết sợ, biết đau không?
(Xem: 14341)
Công bình một đề tài tranh cãi quen thuộc trong đời sống gia đình hằng ngày, thí dụ như chuyện ba đứa trẻ, Anne, Bob và Clara, cùng đòi làm chủ một cây sáo.
(Xem: 15631)
Một sớm đầu năm, bật cửa sổ, làn sương mù ùa vào cùng tia nắng đầu tiên, ta sẽ reo lên ngỡ ngàng. Một loài hoa trắng tinh khiết đang phô diễn hết vẻ đẹp trần gian.
(Xem: 14111)
Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là muốn chiếm hữu những gì mà mình cho là tốt đẹp, và chạy trốn hoặc chống đối lại những gì mà mình không thích.
(Xem: 16629)
Quán, có nghĩa là nghĩ đến sâu sắc một cái đó… Ngồi thật im, thật vững chải, chú ý từng hơi thở vào-ra và tôi quán mình là em bé 5-6 tuổi.
(Xem: 14167)
Tàng cây có hình dáng lạ kỳ, từng nhánh đơm thêm từng nhánh mới, dường như chỉ cần có một chỗ nhỏ nhoi nào đó ở thân cây thì mầm cây tức thì nẩy nhánh, đơm cành.
(Xem: 16179)
Đá núi vô tri sao lại có ngôn ngữ? Có đấy, đá có ngôn ngữ riêng của nó, thứ ngôn ngữ mang tên tình yêu, mang tên cái đẹp và sự rắn rỏi, can cường…
(Xem: 17420)
Henry Miller là một trong vài ba thiên tài nhân loại đã đánh thức dậy thế lực mãnh liệt nhất của Lòng Đại Bi trong ý thứcvô thức của con người trên mặt đất.
(Xem: 13375)
Sự im lặng rùng rợn của Thi CaVăn Chương là cái “bất khả tư nghị” của tất cả những đỉnh cao nhất của Thi CaVăn Nghệ Nhân Loại.
(Xem: 12870)
Sự bám víu tất cả là ở trong tâm. Thay đổi tâm hành sẽ giúp ta chuyển hóa. Cảm xúc, khổ đau hay niềm vui đều chỉ là tâm tưởng.
(Xem: 15033)
Thôi, đừng than van nữa, bạn hãy nhìn lại mình đi, bạn còn có đủ đôi bàn tay, bạn còn rất trẻ, và bạn hoàn toàn có khả năng lao động để thay đổi cuộc sống của mình.
(Xem: 14551)
Nếu giữ được tâm an lạc tự tại, khi gặp phải nghịch cảnh chướng duyên sẽ là bí quyết giúp bạn chế ngự không để các ác tính giận dữ và thù hận phát khởi.
(Xem: 13695)
Hận thù không thể khắc phục và diệt trừ bởi tâm thù hận. Một người đang tức giận, nếu bạn đáp trả họ bằng sự giận dữ, kết quả rất tai hại.
(Xem: 14029)
Nếu không hiểu rõ giá trị truyền thống của các tôn giáo bạn, thì chúng ta rất khó bày tỏ lòng kính trọng các tín ngưỡng khác biệt.
(Xem: 13745)
Tôi nghĩ là điều sai lầm khi chúng ta hy vọng rằng những vấn đề khó khăn hiện nay của chúng ta có thể giải quyết bằng tiền bạc hay quyền lợi vật chất.
(Xem: 13302)
Hiện nay nhân loại sống trên trái đất này, đang phải đối đầu với một vấn đề nan giải là bằng cách nào chúng ta có thể giúp đỡ mọi người sống có hạnh phúc.
(Xem: 13346)
Trong mọi tình huống có hại cho tinh thần, tình trạng có khả năng nguy hiểm và bệnh hoạn nhất là sự lo nghĩ trường kỳ.
(Xem: 13708)
Tồn tại qua bao nhiêu thế kỷ, ngày nay bánh xe Pháp của vua A Dục với một sứ mạng mới, đã gởi đến mọi quốc gia trên thế giới bức thông điệp hòa bình của Ấn độ ngàn xưa.
(Xem: 14169)
Đức Phật dạy rằng điều lành, nghĩa là các kết quả thiện phát sinh từ những nguyên nhân tốt; và kết quả xấu chỉ có thể dẫn đến từ các nguyên nhân bất thiện.
(Xem: 14987)
Người Tây Tạng vốn có tinh thần tôn trọng cá nhân khá cao, cho nên họ sẵn sàng chấp nhậntôn kính hết thảy mọi hình thức tín ngưỡngtôn giáo.
(Xem: 16205)
Trong lúc làm kẻ khác đau khổ, con người đã tự gây đau khổ cho chính mình. Ðó là điều mê lầm hoặc muốn lầm mê của con người. Vô minh là nguồn gốc của mọi tội ác.
(Xem: 13976)
Điều quan trọng nhất trong cuộc sống của con ngườitình thương. Thiếu tình thương, con người không thể có hạnh phúc chân thật.
(Xem: 15687)
Dr. Rajendra prasad (1884-1963), là một học giả và chính trị gia Ấn Ðố nổi tiếng.
(Xem: 14875)
Dưới đây là một câu chuyện thực, rất cảm động, xảy ra tại Nhật Bản nhiều năm trước đây.
(Xem: 12486)
Bình thản, bình tĩnh, thanh thản, thanh bình, yên lặng, trầm tĩnh, trầm lặng, dịu dàng, nhẹ nhàng, ông tự lặp đi lặp lại trong đầu và tìm cho ra hết tất cả những chữ đồng nghĩa với chữ “Ruhe”
(Xem: 13576)
Khi sống quay cuồng, mải chạy đuổi theo khát vọng, chúng ta vô tình bỏ quên những hạnh phúcchúng ta đang có, đến khi hạnh phúc mất đi...
(Xem: 17040)
Nếu như có thời gian, thì bạn nên đi đâu đó, lang thang qua những miền gió cát, thiên di về những nơi xa lơ, xa lắc nào đó.
(Xem: 14256)
Nhà văn Becsnaso đã từng nói:“ Trên thế giới có biết bao nhiêu kỳ quan đẹp đẽ, nhưng trái tim của người mẹ là kỳ quan vĩ đại nhất”.
(Xem: 14134)
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng 300km.
(Xem: 19604)
Con Bê khẻ mở mắt nhìn lên. Hai chân trước nó đưa ra tựa như muốn chắp lại. Trên khóe mắt đọng lại đôi dòng lệ nhỏ. Nó đang sám hối...
(Xem: 19775)
Bà Tú sung sướng đón nhận đạo pháp của bậc chân tu đạo hạnh với cõi lòng nhẹ nhàng, êm dịu như vừa hứng được ngọn gió mát lành...
(Xem: 17957)
Hình ảnh những bến đò, những sân ga thường gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới...
(Xem: 21539)
Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử.
(Xem: 20349)
Đồng hành không có nghĩa chỉ là đi với nhau mà còn phải nương tựa vào nhau, không phải chỉ tìm đến cái đích của chuyến đi mà còn chia sẻ với nhau trong chuyến đi.
(Xem: 23278)
Ngón tay của bậc đạo sư dùng để chỉ mặt trăng cho học trò, chứ không phải ngón tay là mặt trăng. Người học trò lại bám lấy ngón tay và cho ngón tay là mặt trăng.
(Xem: 22565)
Một hôm những chú sâu ăn chơi bất kể đối với những chiếc lá non, bất chợt lại có những chú chim sẻ xuất hiện làm cho những chú sâu khiếp đảm...
(Xem: 17183)
Nắng chiều vừa sụp tắt lúc tôi đặt chân đến chân đồi Mandalay huyễn hoặc. Trăng mùng 8 lên cao trên bầu trời trong vắt. Những bậc thềm có mái che...
(Xem: 16912)
Xã hội Ấn nói chung khá bình lặng, hiền hòa. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và rất yêu mến thiên nhiên. Ở đây ta có thể bắt gặp công viên bất cứ nơi đâu.
(Xem: 18969)
Chuyến xe bắt đầu rời khỏi đô thị nhộn nhịp hướng về vùng cao nguyên bạc ngàn đồi núi, và điểm đến của tôi cũng không phải là quá xa, nhưng đã nhiều năm chúng tôi không gặp...
(Xem: 23992)
Với Sparky, việc học rất quan trọng nhưng cũng là điều không tưởng. Bởi nó (tiêu) tất cả các môn ở lớp 8. Nó thi rớt môn vật lý trong trường trung học...
(Xem: 21367)
Con trai tôi đang cẩn thận lau chùi mặt bếp lò, giọt nước mắt của nó hoà lẫn với nước lau cửa sổ rơi xuống bệ. Tôi nhìn quanh căn bếp tôi đã quá mệt mỏi không thể lau dọn nổi...
(Xem: 22398)
Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn luôn ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim.
(Xem: 24695)
Người chủ tiệm treo tấm bảng "Bán chó con" lên cánh cửa. Những tấm biển kiểu như vậy luôn hấp dẫn các khách hàng nhỏ tuổi. Ngay sau đó, có một cậu bé xuất hiện.
(Xem: 22094)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15871)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18906)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant