Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyến đò canh ba

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 17959)
Chuyến đò canh ba


Hình ảnh những bến đò, những sân ga thường gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới, tùy theo định hướng của từng đối tượng.

Suốt chặng đường đời, đã bao lần lữ khách đứng bên sông, đợi bóng một con đò, lòng bâng khuâng tưởng về nơi sẽ tới, người sẽ gặp? Hay còi tàu giục giã sân ga có làm nôn nao bao người đi, kẻ ở?


Nhân gian đã từng ngược xuôi muôn vạn chuyến đi, về, nhưng con đò kia, chuyến tàu nọ chẳng lưu lại gì như:
“Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.”
Nhạn liệng giữa hư không,
Bóng chìm dưới nước.
Nhạn không để dấu vết lại,
Nước chẳng lưu bóng làm chi.
(VNPG sử lược, HT. Mật Thể)

Thế nên, nhân gian cứ đến và đi như gió thoảng mây trôi, cứ tiếp tục luân hồi chìm đắm, dù thảng hoặc, sách vở ghi lại những Đến và Đi “lịch sử” theo quan niệm hạn hẹp của nhân gian. Chẳng hạn - một sự kiện thôi - như chuyến đi của tráng sĩ Kinh Kha, một mình một kiếm sang Tần với nhiệm vụ giết bạo chúa để cứu muôn dân. Thí dụ sự kiện này vì Kinh Kha được ca ngợi tới mức danh-từ-riêng “Kinh Kha” được người đời dùng như một tĩnh từ kép để nói về cái đẹp, cái uy dũng, cái hào khí ngất trời, thỉnh thoảng thấy trong thơ văn, như bước-chân kinh-kha, khí-phách-kinh-kha, tấm-lòng-kinh-kha v.v... Tráng sĩ Kinh Kha không hoàn thành được sứ mạngâm mưu bị bại lộ. Dù không ai luận anh hùng qua sự thành bại, nhưng những huyền thoại quanh việc Kinh Kha sang Tần có những điều tàn nhẫn quá đáng. Chẳng hạn, trong tiệc rượu vua quan triều thần khoản đãi trước lúc ra đi, Kinh Kha chỉ buột miệng khen cánh tay đẹp của một ca nhi dâng rượu thì sau đó ít phút, một mâm tặng phẩm phủ khăn lụa đỏ được đem ra. Kinh Kha mở tấm lụa, thảng thốt. Đó là đôi tay đẹp của người ca nhi vừa dâng rượu!!!

Chuyến ra đi làm sao còn đẹp khi máu vô tội đã chảy vì bước chân người đi!?

Nhưng may thay, có những chuyến đi không tiệc rượu, không nhã nhạc, không cả tấp nập tiễn đưa, nhưng những chuyến đi ấy còn rực rỡ hào quang đến nay, còn là đuốc soi đường, còn vô cùng vô tận lợi ích quần sanh.

Các bạn có thì giờ không? Chúng ta ôn bài nhé, chỉ là ôn bài thôi, vì câu chuyện này chúng ta đều đã được nghe qua ít nhiều nên trong khi ôn bài, ta sẽ không chú tâm vào chi tiết nội dung mà sẽ nhìn bằng nhãn quan của người thưởng thức hội họa, nghĩa là nhìn toàn diện cái đẹp phảng phất, mênh mang đã tạo thành tuyệt tác, chứ không tấm tắc khen tranh vì bức này vẽ cái ly giống quá, bức kia vẽ bông hoa thật thắm tươi. Nhìn ngắm như thế, e rằng chúng ta chỉ thấy cảnh mà không thấy cái tâm đã tạo ra cảnh.

Bài ôn hôm nay là câu chuyện người thanh niên tên Huệ Năng, nhà nghèo, mù chữ, xuất thân từ đất Lĩnh Nam. Cha mất sớm, Huệ Năng làm nghề đốn củi nuôi mẹ, chưa từng bao giờ được đến trường tiếp nhận một chữ Thánh Hiền. Một lần giao củi tới nhà khách, Huệ Năng thoáng nghe tiếng tụng kinh. Dừng sát bên vách, ghé tai chăm chú, chàng thanh niên đó nghe được câu kệ “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Chỉ câu kệ đó đã thúc đẩy Huệ Năng can đảm bước vào hỏi:

- Thưa ngài, ngài đang tụng kinh gì đó?

Khách bảo:

- Ta tụng kinh Kim Cang, do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai tuyên giảng.

- Thưa ngài, từ đây tới đó bao xa?

- Đi khoảng ba mươi ngày sẽ tới, ngươi hỏi làm chi?

- Thưa ngài, tôi muốn được nghe pháp vi diệu này.

Tấm lòng thiết tha cầu đạo của chàng thanh niên nghèo đã làm một thiện nhân cảm động. Người ấy đưa cho Huệ Năng mười lạng bạc, bảo về thu xếp sự ăn ở cho mẹ già để yên tâm lên đường trực chỉ Hoàng Mai.

Nếu duyên chưa hội đủ, có kẻ xa lạ nào sẵn lòng đưa mười lạng bạc cho người thanh niên nhà quê, làm nghề đốn củi, chỉ vì ý muốn vu vơ là tìm thầy học đạo?

Chỉ chi tiết này cũng đủ khiến chúng ta rơi lệ, phải không quý đạo hữu? Vì nếu không an tâm về cái ăn, nơi ở của mẹ già thì người con hiếu thảo như Huệ Năng không bao giờ ra đi được, dù là đi tìm đạo.

Chuyến đi đó, tranh vẽ nào có thể đẹp hơn?

Khi đến huyện Huỳnh Mai, Huệ Năng hỏi đường tới chùa Đông Thiền, vào bái yết Ngũ Tổ. Tổ hỏi:

- Ngươi từ đâu? Tới cầu chi?

- Thưa Tổ, con người Lĩnh Nam, tới cầu làm Phật.

- Người Lĩnh Nam quê mùa, sao cầu làm Phật được?

- Thưa Tổ, người tuy có Nam có Bắc nhưng Phật tánh thì không phân chia Nam Bắc. Thân quê mùa này so với Tổ có khác, nhưng Phật tánh trong thân này với thân Tổ nào sai khác chi đâu!

Nghe thế, Tổ Hoằng Nhẫn vội nói:

- Thôi được, hãy đi xuống nhà trù, lo công việc giã gạo.

Huệ Năng quỳ xuống, lạy tạ Tổ đã thâu nhận và vâng lời, xuống nhà bếp lo giã gạo, bửa củi.

Chúng ta tưởng Tổ tàn nhẫn ư? Không đâu, Tổ quá từ bi đấy, vì Ngài nhận ra ngay, thanh niên nhà quê này không phải là tầm thường. Trước mặt đông đảo môn sinh của chùa Đông Thiền, Ngũ Tổ không muốn họ nhận ra sự quan tâm đặc biệt của Tổ đối với kẻ nghèo khổ, vừa từ xa đến. Đó là Tổ muốn bảo vệ Huệ Năng, không chỉ buổi đầu đó mà để cho an toàn, tám tháng sau Tổ cũng không ngó ngàng tới người thanh niên suốt ngày bửa củi, giã gạo dưới bếp.

Nhưng hạt đã gieo, phải tới lúc nẩy mầm. Đó là khi Tổ gọi toàn thể môn sinh, hơn một ngàn người tới, truyền rằng:

- Các con theo học ta đã lâu, nay tới lúc kiểm điểm lại thành quả mình. Mỗi người hãy làm một bài kệ, nói lên cái đã thấy biết của mình. Ta sẽ duyệt xét từng bài, hễ nội dung chứng tỏ đã ngộ, ta sẽ trao truyền y bát cho kẻ đó, lãnh trách nhiệm của vị Tổ thứ sáu.

Thật là một lời truyền vô cùng quan trọng. Cả ngàn môn sinh họp nhau bàn bạc rồi cùng đồng ý xin thầy Thần Tú đại diện, làm một bài thôi vì Thần Tú là người thông minh, trí tuệ nhất đại chúng, ai mà có thể làm hay hơn được!

Thần Tú viết bài kệ lên vách tường:

Thân thị Bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.

Đại ý, thân là cây Bồ-đề, tâm như tấm gương trong, phải luôn lau chùi quét dọn cho bụi khỏi bám vào.
Bài kệ được các đồng môn của Thần Tú nức nở khen hay, ai cũng thuộc, cũng đọc nghêu ngao suốt ngày, cho đến nơi nhà bếp, Huệ Năng cũng nghe được. Người thanh niên suốt tám tháng trời chỉ im lặng bổ củi, giã gạo, đã mon men đến bức tường có bài kệ đó, nhờ một người đọc lại cho nghe. Nghe xong, Huệ Năng bảo người ấy:

- Tôi cũng có bài kệ, nhưng không biết chữ, xin huynh viết lên giúp tôi được không?

Bài kệ của Huệ Năng như vầy:

Bồ-đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.

Đại ý, Bồ-đề - ví như thân - thật ra chẳng phải cây, tâm sáng như gương thì chẳng cần đài, bản chất đích thực “không là gì cả” thì lấy chỗ đâu cho bụi bám mà phải lo lau chùi!

Kệ của Thần Tú ở thể xác định, kệ Huệ Năng ở thể phủ định, hoàn toàn trái ngược. Khi hai bài kệ được viết gần nhau, đại chúng đều sửng sốt!

Ngay đêm đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xuống nhà bếp tìm Huệ Năng.

- Ngươi biết vì sao ta không hỏi han chi tới ngươi trong tám tháng qua không?

Huệ Năng quỳ xuống:

- Đa tạ sự che chở của sư phụ, đệ tử đã biết.

- Tốt.

Và Tổ dùng gậy trúc, gõ xuống sàn ba tiếng, rồi thong thả đi ra.

Canh ba đêm đó, Huệ Năng tuân theo hiệu lệnh, lặng lẽ lên phòng Tổ. Cửa được đóng kín lại ngay sau bước chân. Dưới ánh nến lung linh, Ngũ Tổ cấp tốc giảng kinh Kim Cang cho người đệ tử không biết chữ. Huệ Năng đắc pháp ngay trong đêm, rồi được truyền quỳ gối, kính cẩn nhận Y Bát và lời chỉ dạy:

- Ngươi nay là Tổ thứ sáu, nhưng chưa thuận duyên để truyền giáo. Ngay đêm nay, ngươi phải lập tức lên đường, cố gắng bảo trọng thân mạng vì sự tranh giành Y Bát này sẽ xảy ra. Ta không có sự chọn lựa nào khác. Vậy hãy đi ngay trước khi trời sáng.

- Bạch sư phụ, con từ xa tới, nay biết phương hướng nào mà đi đâu?

- Chớ lo, ta sẽ đưa ngươi một đoạn thuyền.

Đêm đó, trời không trăng nhưng đầy sao. Bến đò Cửu Giang vắng vẻ, u tịch, nhưng hương đêm lãng đãng, làn nhang trầm phảng phất từ tàng kinh các nào. Trong không gian huyền hoặc đó, con đò nhỏ tách khỏi bờ lau, trôi êm về phương Nam. Sao trời lấp lánh trên áo nâu sồng của một già, một trẻ, không nói lời nào mà đang trao truyền muôn vạn lời.

Chuyến đò rời nhánh sông Cửu Giang đêm ấy đã để lại cho chúng ta bao tặng phẩm vô giá từ tấm lòng nhị vị Đại sư. Con đò nhỏ chở đầy từ tâm, độ lượng của Ngũ Tổtrí tuệ, nhẫn nhục của Lục Tổ đã thành những trang Bảo Đàn kinh châu ngọc, dẫn dắt chúng sanh nhận ra “Bản lai vô nhất vật”.

“Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác thì bản lai của anh là gì?”

Đó là bài pháp đầu tiên Lục Tổ độ cho người toan ám hại mình để giành Y Bát.

Sau đó, suốt mười lăm năm sống ẩn dật với đám thợ săn vì biết chưa hội đủ thuận duyên hoằng pháp, nhưng mười lăm năm đó, Lục Tổ Huệ Năng cũng đã phương tiện, độ cho bọn người chỉ biết một cách duy nhất để tìm thực phẩm là săn bắn.

Khi duyên đã đủ, Lục Tổ rời rừng núi, tìm đến chùa Pháp Tánh tỉnh Quảng Châu, nơi pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Hôm đó, trời nhiều gió làm lay động những màn, phướn treo quanh giảng đường. Lục Tổ nghe thấy hai vị Tăng đối thoại, người thì bảo “gió động”, người kia nhất định không phải gió, mà là “phướn động”.

Khi ấy, Lục Tổ đến bên, nhẹ nhàng bảo:

- Không phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà là tâm quý vị động đó thôi.

Vừa nghe như thế, hai vị Tăng bỗng ngộ.

Đó là bài pháp thứ hai mà Lục Tổ dạy cho chúng sanh. Giai thoại này lập tức đến tai pháp sư Ấn Tông đang ngồi trên tòa cao giảng kinh. Pháp sư cho mời người thanh niên có dáng vẻ nghèo nàn, lam lũ đó tới gần. Khi biết Huệ Năng từ Hoàng Mai đến, pháp sư hỏi:

- Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn dạy ông những gì?

- Chỉ luận về sự “thấy tánh”.

- Còn thiền địnhgiải thoát thì sao?

- Đó là hai pháp nên chẳng phải Phật pháp vì nếu đích thực Phật pháp thì phải là pháp không hai.

Pháp sư Ấn Tông chưa hiểu kịp, bèn khẩn khoản:

- Xin ông dạy rõ hơn.

- Tỉ như thiện cănhai mặt: thường, hoặc vô thường. Tỉ như Uẩn và Giới, kẻ phàm phu phân biệt là hai, khi liễu ngộ mới thấy tánh của chúng là không hai. Tánh Không Hai Chính Là Phật Tánh, là thể trong suốt, chẳng thường cũng chẳng vô thường nên không hề bị đoạn lìa. Phật tánh đó, chúng sanh hoặc nhận ra, hoặc chưa nhận ra chứ không thể lưng chừng như ác lẫn thiện, đẹp lẫn xấu.

Đó là bài pháp thứ ba, Lục Tổ tuyên giảng khi chưa chính thức đăng đàn thuyết pháp.

Chính ba bài pháp đầu tiên này là nền tảng cho pháp môn Vô Niệm, mà Lục Tổ Huệ Năng đã hết lòng truyền dạy lại cho môn đồ, tứ chúng, để sớm nhận ra điều quan trọng, rốt ráo mà chư Phật bao đời đã khổ công mong chúng sanh đạt tới. Đó là, Nhận Ra Được Phật Tánh Của Mình.

Đa tạ tuệ nhãn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã nhìn suốt “kỳ tâm” của người thanh niên đất nghèo khổ Lĩnh Nam để hậu sinh được có Lục Tổ Huệ Năng.

Đa tạ con đò canh ba năm xưa, đã “Ưng vô sở trụ”, xuôi êm giòng pháp diệu kỳ để tròn đầy huyền nghĩa câu kinh lóng lánh Kim Cương: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 31


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16217)
Trong cuộc sống, có rất nhiều cái mình không thể, hoặc không đủ trí tuệ, khả năng nhận biết sự hiện diện (từ xa) của nó nên mình đặt nó vào hai chữ… bất ngờ!
(Xem: 12756)
Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm...
(Xem: 14866)
Tư Lợi có ba cô gái đang xuân tuổi từ 24 đến 30, đều xuất thân đại học, đều có việc làm tốt tại San Jose, California, đứa nào cũng theo nếp sống Âu Mỹ giao du rộng rãi...
(Xem: 17267)
Tuổi thơ là những tối mùa hè cùng chị gái nằm trên trần đếm sao. Đếm mãi không hết, đếm đến tận bây giờ.
(Xem: 56313)
Dẫu cả thế giới quay lưng với bạn thì bạn cũng đừng vội quay lưng với mình. Đừng hết yêu đời, đừng nhìn đời bằng màu đen...
(Xem: 15320)
Khi thấy một con kiến đang bò, hãy thử lấy ngón tay chặn, sẽ thấy nó cuống cuồng quay lui, tìm đường chạy. Có phải vì nó cũng biết sợ, biết đau không?
(Xem: 14342)
Công bình một đề tài tranh cãi quen thuộc trong đời sống gia đình hằng ngày, thí dụ như chuyện ba đứa trẻ, Anne, Bob và Clara, cùng đòi làm chủ một cây sáo.
(Xem: 15632)
Một sớm đầu năm, bật cửa sổ, làn sương mù ùa vào cùng tia nắng đầu tiên, ta sẽ reo lên ngỡ ngàng. Một loài hoa trắng tinh khiết đang phô diễn hết vẻ đẹp trần gian.
(Xem: 14111)
Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là muốn chiếm hữu những gì mà mình cho là tốt đẹp, và chạy trốn hoặc chống đối lại những gì mà mình không thích.
(Xem: 16629)
Quán, có nghĩa là nghĩ đến sâu sắc một cái đó… Ngồi thật im, thật vững chải, chú ý từng hơi thở vào-ra và tôi quán mình là em bé 5-6 tuổi.
(Xem: 14169)
Tàng cây có hình dáng lạ kỳ, từng nhánh đơm thêm từng nhánh mới, dường như chỉ cần có một chỗ nhỏ nhoi nào đó ở thân cây thì mầm cây tức thì nẩy nhánh, đơm cành.
(Xem: 16180)
Đá núi vô tri sao lại có ngôn ngữ? Có đấy, đá có ngôn ngữ riêng của nó, thứ ngôn ngữ mang tên tình yêu, mang tên cái đẹp và sự rắn rỏi, can cường…
(Xem: 17420)
Henry Miller là một trong vài ba thiên tài nhân loại đã đánh thức dậy thế lực mãnh liệt nhất của Lòng Đại Bi trong ý thứcvô thức của con người trên mặt đất.
(Xem: 13375)
Sự im lặng rùng rợn của Thi CaVăn Chương là cái “bất khả tư nghị” của tất cả những đỉnh cao nhất của Thi CaVăn Nghệ Nhân Loại.
(Xem: 12870)
Sự bám víu tất cả là ở trong tâm. Thay đổi tâm hành sẽ giúp ta chuyển hóa. Cảm xúc, khổ đau hay niềm vui đều chỉ là tâm tưởng.
(Xem: 15034)
Thôi, đừng than van nữa, bạn hãy nhìn lại mình đi, bạn còn có đủ đôi bàn tay, bạn còn rất trẻ, và bạn hoàn toàn có khả năng lao động để thay đổi cuộc sống của mình.
(Xem: 14552)
Nếu giữ được tâm an lạc tự tại, khi gặp phải nghịch cảnh chướng duyên sẽ là bí quyết giúp bạn chế ngự không để các ác tính giận dữ và thù hận phát khởi.
(Xem: 13695)
Hận thù không thể khắc phục và diệt trừ bởi tâm thù hận. Một người đang tức giận, nếu bạn đáp trả họ bằng sự giận dữ, kết quả rất tai hại.
(Xem: 14033)
Nếu không hiểu rõ giá trị truyền thống của các tôn giáo bạn, thì chúng ta rất khó bày tỏ lòng kính trọng các tín ngưỡng khác biệt.
(Xem: 13745)
Tôi nghĩ là điều sai lầm khi chúng ta hy vọng rằng những vấn đề khó khăn hiện nay của chúng ta có thể giải quyết bằng tiền bạc hay quyền lợi vật chất.
(Xem: 13304)
Hiện nay nhân loại sống trên trái đất này, đang phải đối đầu với một vấn đề nan giải là bằng cách nào chúng ta có thể giúp đỡ mọi người sống có hạnh phúc.
(Xem: 13347)
Trong mọi tình huống có hại cho tinh thần, tình trạng có khả năng nguy hiểm và bệnh hoạn nhất là sự lo nghĩ trường kỳ.
(Xem: 13709)
Tồn tại qua bao nhiêu thế kỷ, ngày nay bánh xe Pháp của vua A Dục với một sứ mạng mới, đã gởi đến mọi quốc gia trên thế giới bức thông điệp hòa bình của Ấn độ ngàn xưa.
(Xem: 14171)
Đức Phật dạy rằng điều lành, nghĩa là các kết quả thiện phát sinh từ những nguyên nhân tốt; và kết quả xấu chỉ có thể dẫn đến từ các nguyên nhân bất thiện.
(Xem: 14989)
Người Tây Tạng vốn có tinh thần tôn trọng cá nhân khá cao, cho nên họ sẵn sàng chấp nhậntôn kính hết thảy mọi hình thức tín ngưỡngtôn giáo.
(Xem: 16206)
Trong lúc làm kẻ khác đau khổ, con người đã tự gây đau khổ cho chính mình. Ðó là điều mê lầm hoặc muốn lầm mê của con người. Vô minh là nguồn gốc của mọi tội ác.
(Xem: 13976)
Điều quan trọng nhất trong cuộc sống của con ngườitình thương. Thiếu tình thương, con người không thể có hạnh phúc chân thật.
(Xem: 15688)
Dr. Rajendra prasad (1884-1963), là một học giả và chính trị gia Ấn Ðố nổi tiếng.
(Xem: 14876)
Dưới đây là một câu chuyện thực, rất cảm động, xảy ra tại Nhật Bản nhiều năm trước đây.
(Xem: 12488)
Bình thản, bình tĩnh, thanh thản, thanh bình, yên lặng, trầm tĩnh, trầm lặng, dịu dàng, nhẹ nhàng, ông tự lặp đi lặp lại trong đầu và tìm cho ra hết tất cả những chữ đồng nghĩa với chữ “Ruhe”
(Xem: 13577)
Khi sống quay cuồng, mải chạy đuổi theo khát vọng, chúng ta vô tình bỏ quên những hạnh phúcchúng ta đang có, đến khi hạnh phúc mất đi...
(Xem: 17040)
Nếu như có thời gian, thì bạn nên đi đâu đó, lang thang qua những miền gió cát, thiên di về những nơi xa lơ, xa lắc nào đó.
(Xem: 14257)
Nhà văn Becsnaso đã từng nói:“ Trên thế giới có biết bao nhiêu kỳ quan đẹp đẽ, nhưng trái tim của người mẹ là kỳ quan vĩ đại nhất”.
(Xem: 14136)
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng 300km.
(Xem: 19606)
Con Bê khẻ mở mắt nhìn lên. Hai chân trước nó đưa ra tựa như muốn chắp lại. Trên khóe mắt đọng lại đôi dòng lệ nhỏ. Nó đang sám hối...
(Xem: 19779)
Bà Tú sung sướng đón nhận đạo pháp của bậc chân tu đạo hạnh với cõi lòng nhẹ nhàng, êm dịu như vừa hứng được ngọn gió mát lành...
(Xem: 21541)
Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử.
(Xem: 20350)
Đồng hành không có nghĩa chỉ là đi với nhau mà còn phải nương tựa vào nhau, không phải chỉ tìm đến cái đích của chuyến đi mà còn chia sẻ với nhau trong chuyến đi.
(Xem: 23281)
Ngón tay của bậc đạo sư dùng để chỉ mặt trăng cho học trò, chứ không phải ngón tay là mặt trăng. Người học trò lại bám lấy ngón tay và cho ngón tay là mặt trăng.
(Xem: 22567)
Một hôm những chú sâu ăn chơi bất kể đối với những chiếc lá non, bất chợt lại có những chú chim sẻ xuất hiện làm cho những chú sâu khiếp đảm...
(Xem: 17185)
Nắng chiều vừa sụp tắt lúc tôi đặt chân đến chân đồi Mandalay huyễn hoặc. Trăng mùng 8 lên cao trên bầu trời trong vắt. Những bậc thềm có mái che...
(Xem: 16914)
Xã hội Ấn nói chung khá bình lặng, hiền hòa. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và rất yêu mến thiên nhiên. Ở đây ta có thể bắt gặp công viên bất cứ nơi đâu.
(Xem: 18970)
Chuyến xe bắt đầu rời khỏi đô thị nhộn nhịp hướng về vùng cao nguyên bạc ngàn đồi núi, và điểm đến của tôi cũng không phải là quá xa, nhưng đã nhiều năm chúng tôi không gặp...
(Xem: 23994)
Với Sparky, việc học rất quan trọng nhưng cũng là điều không tưởng. Bởi nó (tiêu) tất cả các môn ở lớp 8. Nó thi rớt môn vật lý trong trường trung học...
(Xem: 21369)
Con trai tôi đang cẩn thận lau chùi mặt bếp lò, giọt nước mắt của nó hoà lẫn với nước lau cửa sổ rơi xuống bệ. Tôi nhìn quanh căn bếp tôi đã quá mệt mỏi không thể lau dọn nổi...
(Xem: 22402)
Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn luôn ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim.
(Xem: 24698)
Người chủ tiệm treo tấm bảng "Bán chó con" lên cánh cửa. Những tấm biển kiểu như vậy luôn hấp dẫn các khách hàng nhỏ tuổi. Ngay sau đó, có một cậu bé xuất hiện.
(Xem: 22096)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15872)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18909)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant