Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Tùy Duyên Hóa Độ Là Khó

01 Tháng Hai 201612:37(Xem: 16373)
Tùy Duyên Hóa Độ Là Khó
Tùy Duyên Hóa Độ Là Khó

 

      Một trong những công tác hàng đầu của tu sĩ Phật giáo là: Đem lời dạy của Phật và sự tu học của mình để truyền đạt cho mọi người cùng tham khảo học hiểu và tu học theo. Nhưng để đạt được mục tiêu giáo dục này, đòi hỏi người truyền bá phải biết vận dụng nhuần nhuyễn hợp lý, hợp tình, biết được căn cơ của mọi người. Thiếu đi yếu tố quyết định này, sự hoằng pháp có thể dẫn đến thất bại.

     Tùy theo điều kiện nhân duyên, căn cơ trình độ của mỗi người mà chúng ta có thể giúp đỡ để họ chuyển hóa phiền não tham sân si, thành an vui hạnh phúc. Điều này không phải dễ, thường thì chúng ta hay áp đặt lên quan điểmtrình độ của kẻ khác, bằng sự hiểu biết của mình, mà quên đi mục đích chính là giúp người qua biển khổ sông mê, chứ không phải phổ biến quan niệm hay truyền đạt lối tu của mình.

     Có đủ trí tuệ và khả năng để tùy duyên hoá độ chúng sinh là rất khó. Bồ Tát Quán Thế Âm có 32 tướng ứng hóa thân để độ chúng sinh bằng tứ nhiếp pháp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự làm phương tiện hướng chúng sinh quay về đường thiện bằng trái tim yêu thươnghiểu biết.

      Tùy duyên mà vẫn giữ được mục đíchbản chất của nó ta thường gọi là tùy duyên mà không bị biến đổi. Có người nội lực còn yếu kém, nên tùy duyên quá đành phải chịu cho duyên trần kéo lôi làm đánh mất bản thân mình, mà dính mắc vào đời sống thế tục.

     Ngay cả đến Đức Phật, khi thuyết pháp, Ngài cũng vận dụng phương tiện thiện xão để tuỳ duyên tuỳ căn cơ mọi ngườitìm cách độ họ. Các vị Thiền sư, đạo sư, cao tăng sau này cũng nhờ tùy duyên hóa độ mà làm rạng rỡ truyền thống tốt đẹp của Phật giáo. Do đó, tùy duyên hóa độcần thiết, là khó thực hiện, là nền tảng của sự hoằng pháp, giáo dục. Cho nên tuỳ duyên hoá độ là khó.

19- Thấy cảnh vô tâm là khó

     Nội dung của điều khó này cũng tương tự với nội dung ở điều khó thứ 10. Nhưng vô tâm ở đây được đề cập với mức độ cao hơn, sâu hơn, khó thực hiện hơn, có nghĩa là hoàn toàn không dính mắc vào mọi sự vật, dù kiếm bén kề sát cổ ta vẫn không sợ hãi. Vô tâmhoàn toàn an nhiên tự tại, giải thoát. Không động tâm là bước đầu để đạt đến vô tâm. Khi ta còn động tâm thì không thể nào thành tựu được vô tâm hoàn toàn trước cảnh trần.

     Người tu đạo giác ngộ, giải thoát phải từng bước huấn luyện cho tâm mình không dao động trước mỗi hoàn cảnh. Mọi sự tiếp xúc ta phải tập làm chủ trực tiếp từ sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý.

    Vua Trần Nhân Tông lên ngôi năm hai 20 tuổi, xuất gia năm 41 tuổi, thị tịch năm 51 tuổi. Ngài là vua lãnh đạo đất nước thừa hưởng cung vàng điện ngọc, thụ hưởng dục lạc thoải mái. Hai phen cầm quân đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ yên nước nhà qua cơn loạn lạc.

    Khi đi xuất gia Ngài tu khổ hạnh hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, tích cực truyền bá chánh pháp, phá bỏ tập tục mê tín khuyến khích mọi người giữ gìn năm giới, tu mười điều lành, Ngài hoằng hoá độ sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán.

    Điểm đặc biệt của Ngài là khi làm vua thì hy sinh quên mình giữ nước, chống giặc ngoại xâm hết mực thương yêu lo lắng cho dân chúng an cư lạc nghiệp. Khi xuất gia thì quyết chí tu hành cho sáng đạo. Đến khi hoằng pháp lợi sinh thì hướng dẫn cho mọi người bỏ ác làm lành và cùng nhau sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Ngài là tấm gương sáng cho nhân loại để nhắc nhỡ cho chúng là không có gì không thể làm được, chỉ có ta có quyết chí vươn lên vượt qua lầm lỗi hay không mà thôi! Chính vì thái độ dứt khoát rõ ràng trong từng giai đoạn, nhờ vậy mà Ngài tự tại làm chủ bản thân sống đời an nhiên, giải thoát. Chúng ta hãy lắng nghe bài kệ của Ngài:

        Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên

        Đói đến thì ăn mệt ngủ liền

        Trong nhà báu sẵn thôi kiếm tìm

        Đối cảnh không tâm, chớ hỏi thiền.

     Sống giữa cuộc đời trần tục với muôn vàn cám dỗ nào lợi danh, sắc đẹp, tiền tài, ăn ngon, mặc đẹp, ngũ nhiều nhưng khi sáng đạo thì mọi thứ chỉ là ảo ảnh, không thật có. Duyên cảnh biến thiên tình đời đổi trắng thay đen, nhưng ta vẫn thấy an vui hạnh phúc, như khi đói đến thì ăn, khi mệt đến thì nghỉ ngơi không toan tính nghĩ suy mà tự làm khổ mình.

    Người đời không biết cứ dong duỗi tìm cầu bên ngoài mà không biết ngay nơi thân này có tính biết sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Cái khéo của chúng ta là khi đối duyên xúc cảnh tâm ta vẫn an nhiên bất động, vậy thì còn tìm hỏi thiền ở đâu nữa. Thật đơn giản nhẹ nhàng chớ tìm cầu đâu xa.

    Ngài chỉ tu trong một thời gian ngắn chỉ khoảng mười năm thôi, cho nên mọi người đều tôn xưng Ngài là ông vua thiền sư Phật Hoàng Trần Nhân Tông.

    Vua Trần Nhân Tông là người kế thừa con đường của Phật đã vạch sẵn, nên không phải mất công tìm kiếm đâu xa, do đó mà công phu đơn giản nhẹ nhàng, chỉ nhìn thấy từng tâm niệm sinh diệt mà không cần phải đối trị quán chiếu. Cho nên đối cảnh vô tâm là một việc khó làm vì nó là điểm đích sau cùng khi thành tựu đạo pháp.

     Như thế, chúng ta cũng biết rằng từ không dính mắc, động tâm sẽ dẫn đến vô tâm. Vô tâm là không còn dính mắc ta người và hoàn cảnh, là thể nhập như như bất động, là tự tại, giải thoát và thường biết rõ ràng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28)
Hầu như không có ai nghĩ xa hơn thế, nghĩ xa hơn cái chết. Đây là lý do tại sao chúng ta thiển cận và không nghĩ đến việc
(Xem: 326)
“Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Thiện duyên nan ngộ, Phật quốc nan sanh” là gì ?
(Xem: 378)
Thờ Phật không phải là cầu xin ban phúc hay tha tội, vì Ngài không phải thần linh mà là người thầy dạy cách thoát khỏi khổ đau mà chính ngài tìm kiếm, chứng nghiệm.
(Xem: 409)
Dòng đời xưa nay vẫn thế, từng đời từng đời nối tiếp nhau, thịnh suy bất định, tụ tán vô kỳ.
(Xem: 701)
Vesak theo truyền thống gắn liền với sự ra đời, giác ngộ và nhập Niết bàn của Đức Phật,
(Xem: 726)
Bồ Tát Đạo là con đường mà vị Bồ Tát phải đi qua. Đây là những giai đoạn mà một vị Bồ Tát kinh qua trên đường giác ngộ.
(Xem: 837)
Trong triết lý sống của ông cha ta, có một câu nói nghe qua tưởng nghịch lý nhưng lại ẩn chứa sự minh triết sâu sắc
(Xem: 928)
Hiện nay đang ở vào thời mạt thế, xuất hiện nhiều tà sư hướng dẫn Phật tử vào con đường sai lạc. Điều này không phải bây giờ mới có.
(Xem: 977)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(Xem: 1043)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(Xem: 848)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(Xem: 996)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(Xem: 1110)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(Xem: 1073)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(Xem: 1112)
Phật tánh là chủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(Xem: 1291)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(Xem: 1272)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(Xem: 1243)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(Xem: 1202)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(Xem: 1012)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(Xem: 1908)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(Xem: 1046)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 987)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(Xem: 1629)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1618)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(Xem: 1394)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(Xem: 1828)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1738)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(Xem: 1176)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(Xem: 1971)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(Xem: 1614)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 1125)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1732)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(Xem: 1141)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1909)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần.
(Xem: 1822)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(Xem: 1083)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(Xem: 1086)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
(Xem: 2328)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn
(Xem: 2051)
Sau thực phẩm, ngôn ngữ là nguồn nước của dòng chảy văn hóa trong đó văn là vẻ đẹp (văn vẻ), hóa là sự thay đổi.
(Xem: 1599)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế
(Xem: 2442)
Đức Phật đã từng xác định pháp tu Tứ Niệm Xứ là “Con đường độc nhất đưa đến: Thanh tịnh chúng sanh; Vượt khỏi sầu não;
(Xem: 2305)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(Xem: 2270)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(Xem: 2325)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(Xem: 2025)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(Xem: 1322)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(Xem: 2465)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnhyếu chỉ của duy thức học.
(Xem: 2529)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM