Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dòng sông Tịnh Độ

02 Tháng Tư 201611:23(Xem: 11792)
Dòng sông Tịnh Độ

Dòng sông Tịnh Độ

Dong Song Tinh Do (1)

Một đại văn hào người Pháp đã viết câu “Con người không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông“, nhưng Dòng sông Tịnh Độ của tôi không phải là “Dòng sông định mệnh“ của Quỳnh Dao, nên đã chan hòa đến lần thứ 11 tại chùa Linh Thứu rồi mà vị giải thoát vẫn ngời ngợi tỏa sáng. Vâng, khóa Huân Tu Tịnh Độ kỳ 11 từ ngày 14 đến 20 tháng 3 năm 2016 đã có khoảng 180 Phật Tử đa số từ phương xa và 20 Chư Tăng Ni đến tham dự. Đặc biệt vẫn là HT Phương Trượng chùa Viên Giác Thích Như Điển đến khai mạc và giảng Pháp, để phần hướng dẫn khóa tu cho Thầy Hạnh Giới một chuyên gia hay nói đúng hơn là một Hành Giả chỉ dẫn chúng ta con đường ngắn nhất và nhanh nhất đến gặp Đức  Phật A Di Đà.

Bài viết chi tiết về khóa tu tôi xin được nhường cho cây bút Nguyên Hạnh cũng cùng tham dự, phần tôi sẽ viết các chuyện bên lề như: “Chuyện Tình của một vị Hòa Thượng“ nhân bài giảng về Kinh Lăng Nghiêm, Phẩm số 14 có liên quan đến câu chuyện tình của Ngài A Nan và cô nàng Ma Đăng Già, đã gây nhiều sóng gió trong chốn Thiền môn từ thời Đức Phật.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, ngài có nhiều đệ tử thuộc hàng xuất chúng, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười, nào là đa văn, thiên nhãn thần thông, giới luật nghiêm minh, tánh Không đệ nhất. Nhưng tướng hảo đệ nhất vẫn là ngài A Nan, kế đến ngài Mục Kiền Liên đệ nhị với những thần thông tỏa sáng đầy người. Hai vị này cho thả rong cầm bình bát đi khất thực ngoài đường, không sớm thì chầy sẽ trở thành những đối tượng nóng bỏng của các cô gái đương xuân. Quả thật thế, cô nàng Ma Đăng Già khi nhìn thấy dung nhan tỏa hào quang của Thầy A Nan xong đâm ra cảm mạo phong hàn. Lại càng ốm lăn ốm lóc tương tư sầu não, khi được Thầy giải cho mặc cảm thân phận thấp hèn: “Ta xin nước của nàng chứ không xin giai cấp”. Ôi! Người đâu sao mà đáng yêu đến thế thì thôi!

Mẹ của nàng biết con mình với quá cao, trèo cao kiểu này chắc té lọi xương chứ không phải chơi. Nhưng tình thương con quá bao la, chẳng lẽ để nó vật vã chết dần chết mòn trong bảy thứ tình như thế sao. Bà chơi trò ma giáo, kiếm các bùa ngải đưa cho cô con gái rượu để mê hoặc Thầy A Nan, bắt Thầy phải phạm giới. Nhưng Đức Thế Tôn với tuệ nhãn thần thông đã thấy hết mọi việc, dùng chú Thủ Lăng Nghiêm cứu Thầy A Nan thức tỉnh kịp thời.

Nàng Ma Đăng Già bị mất người yêu đâu chịu ngồi yên, nhất định đến gặp đức Thế Tôn khóc lóc, đòi trả thầy A Nan lại cho nàng. Đức Thế Tôn ôn tồn hỏi:

- Thế con yêu thầy A Nan ở điểm nào?

- Dạ, thưa đức Thế Tôn, con yêu ở đôi mắt đẹp sáng như sao, lại sâu thẳm như nước đại dương. Thật là một kỳ quan của tạo hóa.

- Này con, nếu sáng mai ngủ dậy thầy A Nan chưa kịp rửa mặt, mắt toàn đầy những rữa ghèn, con có yêu được không?

Cô nàng hơi lúng túng, nhưng vẫn tìm được những điểm đáng yêu khác để lách:

- Con yêu cái mũi đẹp của Thầy, cao và thẳng tắp như những rặng dừa.

- Nhưng con ơi, hôm nào Thầy bị cảm nước mũi chảy lòng thòng, lại đỏ au như trái cà chua, con có còn yêu được nữa hay không?

Cô nàng vẫn ngoan cố đòi Thầy A Nan về cho bằng được. Đức Thế Tôn phải đổi chiến lược chiến thuật, khuyên nàng đi tu gieo duyên 2 tuần để khoảng cách giữa hai người về trình độ văn hóa không quá ư chênh lệch. Nàng mừng rỡ nhận lời ngay vì nghĩ mình tu ở đây sẽ có nhiều cơ hội gặp gỡ người yêu. Nhưng chỉ cần vài bài Pháp cỡ Tứ Diệu Đế rồi Tứ Niệm Xứ…, nàng đã quên luôn Thầy A Nan yêu quí của nàng, để hằng ngày theo anh Chánh Niệm đi thiền hành nửa bước cũng chẳng rời. Sau khóa tu gieo duyên nàng đã chứng quả A La Hán trước cả Thầy A Nan, vị này vì quá đa văn nên vẫn còn lận đận mãi trên đường tu.

Do câu chuyện này, thế gian về sau hay xuất hiện các câu vè cho các Thầy trẻ sắp bị các Ma Nữ bắt:

Cảm sương, cảm gió, thấm lần vô tim.

Cần phải tiêm thần chú Thủ Lăng Nghiêm.

Đã gọi là thần chú rồi thì chúng ta cũng không cần phải thắc mắc ý nghĩa lý giải bên trong, chỉ biết rằng muốn diệt Ái ta phải đọc tụng thần chú này mỗi ngày và linh hiệu nhất vẫn là sáng sớm tinh mơ khi gà vừa gáy. Theo nghiên cứu khoa học thì thời gian này cơ thể hay tiết ra các kích thích tố tạo ái dục.

Trở về bài giảng của HT Như Điển trong khóa tu, Người bảo rằng mối tình của ngài A NanMa Đăng Già không phải ngẫu nhiên mà có được trong một kiếp, chắc chắn một kiếp nào đó trong tiền kiếp họ đã là vợ chồng, giờ gặp lại mới đòi nợ tình một cách quyết liệt như vậy. Thế rồi Người cười thật tươi, tự hào cho sự không vướng mắc của mình:

- Kiếp này trong lòng tôi không có hình bóng một người phụ nữ nào! Nhưng người ta yêu tôi thì rất nhiều. Xin mời nhà giáo Nguyên Hạnh lên kể chuyện tình của tôi cho mọi người nghe.

Cụ bà Nguyên Hạnh đang ngồi lim dim trên ghế ở cuối chánh điện vì chân đau, nghe lời mời của Hòa Thượng thấy choáng váng vài giây, nhưng sau đó đã mạnh dạn lên cầm mi-crô kể mạch lạc câu chuyện tình đơn phương của một cô Phật tử cùng vùng München nơi chị ở.

Câu chuyện xảy ra cũng đã hơn hai chục năm, nhưng dư âm hình ảnh cũ cảnh Hòa Thượng của chúng ta phải tháo chạy ra xe, trước tiếng kêu thảm thiết của kẻ tình si rượt chạy đằng sau, vẫn còn đọng lại trong trí nhớ của những người được chứng kiến. Đấy là khóa tu học Phật Pháp Âu châu lần thứ 9 được tổ chức tại Đức Quốc tỉnh München. Sau đây là một vài mẫu đối thoại của chị Nguyên Hạnh với kẻ tình si:

- Không ai cấm cô yêu Thầy cả, nhưng xin cô hãy để trong lòng và đừng quấy phá đường tu của Thầy!

Nhưng cô nàng đâu dễ dàng gì buông tha, khi sóng tình đang trào dâng cuồn cuộn như nàng Ma Đăng Già thuở xa xưa, khóa tu nào ở địa phương cũng có mặt nàng diện thật đẹp ngồi ngay hàng đầu. Thơ tình nàng viết gửi về chùa Viên Giác nhiều không kể xiết, nhưng đã bị chận lại ngay tại văn phòng. Hòa Thượng của chúng ta chưa từng “được” hay “bị” đọc một lá thư nào của nàng, khác hẳn với Liên Hoa Hòa Thượng của Hoàng Cô những 15 lá thư tình.

Do đâu mà Hòa Thượng của chúng ta vẫn như như bất động trước Lửa Tình, ấy là nhờ công phu tu tập trì tụng thần chú Thủ Lăng Nghiêm không phút lãng xao suốt năm chục năm hơn. Và để khuyến tấn lớp trẻ dấn thân học Kinh Lăng Nghiêm, Người đã treo giải thưởng một bằng lái xe (khoảng 2000 Euro) cho những ai thuộc bộ kinh này ở lứa tuổi 17 đến 18. Giải thưởng hấp dẫn thật đấy, nhưng chẳng giới trẻ nào chịu quyết tâm giật giải. Thế nhưng giới già lại thuộc vanh vách, chỉ nội trong chánh điện của chùa Linh Thứu thôi đã có mười mấy cánh tay giơ cao, khi Thầy hỏi ai trong đây đã thuộc Kinh Lăng Nghiêm. Trong khi ấy ở các đạo tràng bên Mỹ, nơi Thầy đi Hoằng Pháp nhiều năm, chỉ có 4 người đã thuộc bộ kinhĐi lính sợ Ải, làm Sải sợ Lăng Nghiêm” này.

Hòa Thượng chỉ có hai thời Pháp mà thôi, nên bài sau chuyên về Tịnh Độ cho hợp với chủ đề “Huân Tu Tịnh Độ”. Nguyên khóa tu tôi chỉ nắm bắt mỗi một câu Hòa Thượng hỏi anh Tâm Nghĩa và chị Diệu Hương, một cặp đôi hoàn hảo trong sân Chùa, họ tu pháp môn Tịnh Độ rất tinh tấn:

- Tâm Nghĩa cho Thầy biết! Cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà trên đó có vĩnh cửu hay không?

Quả không hổ danh là Phật Tử thuần thành, anh đem kinh điển ra dẫn chứng rành mạch:

- Thưa Thầy, trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có câu “Nhất thiết duy tâm tạo”, nếu tâm ta không thanh tịnh đầy phiền não, thì dù có được ở trên cảnh giới của Ngài cũng biến mất mà thôi. Còn nếu tâm ta thanh tịnh thì ngay tại nơi đây trong Cõi Ta Bà, ta cũng đạt được cảnh giới ấy.

Giờ giảng của Hòa Thượng nhiều lúc cứ như giờ khảo bài, khiến các đệ tửPháp danh với chữ Thiện hàng đầu phải sốt vó, không dám lơ là ngủ gục. Chẳng hạn Người hỏi, ai trong đây đã đọc bài “Tôn Giáo Học so sánh” viết về tác phẩm của Hòa Thượng Thánh Nghiêm phái Pháp Cổ Sơn bên Đài Loan. Cả chánh điện đều ngơ ngác làm thinh, khiến Người phải điểm mặt chỉ tên cái người đã đưa bài này lên trang web của chùa Linh Thứu, chắc chắn phải đọc qua nhưng nhớ hay không lại là chuyện khác. Câu hỏi là, tại sao thời kỳ kết tập Kinh điển lần thứ nhất sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn 100 ngày tại động Thất Diệp gần thành Vương Xá chỉ có 500 vị A La Hán mà trên thực tế thuở ấy còn nhiều vị A La Hán khác nữa không được cung thỉnh?

Tuy không nhớ trọn vẹn hết các điểm chính, nhưng kẻ bị hỏi vẫn ấp úng trả lời được đến 75 phần trăm câu hỏi đủ điểm đậu:

- Thưa Thầy, tại Ngài Ca Diếp không chịu mời vì Ngài chỉ tu theo hạnh Đầu Đà…

Còn phần “Thiền Định” thì bí lối, nên được ngồi xuống với một tràng pháo tay an ủi.

Trong khi đó những vị A La Hán chuyên về trí tuệ và sự lợi lạc cho chúng sanhtinh thần Đại Thừa thì bị bỏ rơi ra ngoài. Theo HT Thánh Nghiêm, nếu không nhờ lần kết tập thứ ba thời vua A Dục (sau Đức Phật nhập diệt 300 năm) và nếu không là Ông Vua Hộ Pháp nầy thì tinh thần bộ phái Bắc Tông vẫn chưa vươn xa ra khỏi Ấn Độnếu không có Ngài Long Thọ, Mã Minh, Vô Trước, Thế Thân tiếp nốithì Đại Thừa vẫn nằm trong lãnh thổ Ấn Độ chứ không ra ngoài lãnh thổ nầy được”.          

Qua đoạn văn trên, ta có thể kết luận được rằng kinh điển Đại Thừa đã có từ thời Đức Phật, chứ không phải do các Tổ viết ra sau này như chúng ta vẫn lầm tưởng.

Đến sáng thứ tư, Hòa Thượng phải đi sớm để còn về sửa soạn cho chuyến Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ. Trước khi giã từ Người đã tặng cho các Phật tử trong đạo tràng không biết bao nhiêu là quà, nào là bao lì xì trong có 2 đô la loại đặc biệt cho các bác lớn tuổi, rồi sụt dần theo lứa tuổi đến phần tôi chỉ còn 20 cent, mặc dù tôi đã lên hàng sáu. Quà tinh thần lại còn nhiều hơn nữa, một bộ kinh Thiền Môn Nhật Tụng in mới toanh có thêm phần tiếng Anh và tiếng Đức, Kinh Ngũ Bách Danh bản tiếng Việt cho các vị lạy thỏa thích với “Lời tựa” thật tuyệt vời cần phải đọc và tác phẩm Nhật Bản trong lòng tôi mới nhất, chỉ dành cho những vị thích đọc sách đến mòn gáy chứ không phải để chưng hay để thờ.

Trong buổi Công Phu Khuya sáng hôm khai mạc, Hòa Thượng đã cầu siêu cho cây bút báo Viên Giác Trần Bình Nam vừa tạ thế tại Hoa Kỳ. Đây là một sự mất mát lớn cho mọi ngườiđặc biệt cho Những Cây Bút Nữ báo Viên Giác, anh trưởng nhóm là một nhà thơ nên “Bằng Cả Tấm Lòng” đã cho ra mấy vần thơ tuyệt diệu:

Chưa thành công sao anh đành giã biệt
Mộng “Phục Hưng” còn canh cánh bên lòng
Anh nằm xuống bao nhiêu người thương tiếc
Một đời trai chưa thỏa chí tang bồng…

Vài hàng tưởng niệm anh Bình Nam thế thôi! Chứ chúng tôi phải tu tiếp, phải theo Thầy Hạnh Giới đi thiền hành, vừa đi vừa niệm Phật đều đặn theo từng bước chân. Sau một tiếng đồng hồ đi vòng quanh chánh điện, xoay tới xoay lui với hàng trăm hành giả niệm Phật vang rền, nhưng vẫn trang nghiêmđẹp mắt lại thứ tự hẳn hòi. Khác hẳn với lối đi ngoài đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt” trong “Một cõi đi về”. Chỉ có thế thôi mà Thầy Hạnh Giới đã mỉm cười mỹ mãn bảo rằng, chúng ta đã đi được gần 5 cây số. Không biết Thầy đã dùng phương pháp nào để đo lường? Nhưng thôi miễn sao cứ vui và khỏe là được.

Buổi chiều Thầy có giờ giảng Pháp, đề tài là chữ Tâm, nào là Tâm thanh tịnh, Tâm giải thoát…Thầy muốn soi Tâm của mọi người các bạn ạ! Xem thử sau 11 khóa tu có tiến bộ chút nào không? Ái chà, cái này phải còn xét lại nhỡ “Lực bất tòng tâm” thì sao? Nói thế cho vui chứ các Bác lớn tuổi, các em trai trẻ cũng tu hành tinh tấn lắm, họ đến từ Pháp, Hòa Lan, Thụy Sĩ, Đan Mạch… khóa nào cũng có mặt tại chùa Linh Thứu như một lời hứa “Đến hẹn lại lên”. Chị Thanh Phụng ở Đan Mạch đã đem đến cho mọi người một ngạc nhiên lớn đáng khâm phục, cậu con trai độc nhất của chị vừa cao lớn vừa học giỏi, mới tốt nghiệp Cao học xong đã xuống tóc đi tu theo Thầy Hạnh Giới làm thị giả học chuông mõ sớm khuya. Chúc mừng cho Thanh Phụng nhé! Chẳng bù với tôi có tới 3 cậu con trai mà tạo điều kiện đủ kiểu chẳng cậu nào chịu đi Quy Y, mãi đến khi lấy vợ, cậu cả mới được vợ dẫn đi quy y cho cả gia đình. Hóa ra mẹ nói không nghe, nhưng ai kia chỉ cần thỏ thẻ hay lườm một cái là nghe răm rắp.

Trong khóa tu có một hình ảnh thật cảm động, một ông cụ tóc bạc đi đâu cũng nắm tay dắt một ông cụ gần như mù cho đúng với câu “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn”. Đó là Đồng Tuệ và Từ Lương, người của Niệm Phật Đường Linh Thứu từ 30 năm về trước. Ai có ngờ đâu vô thường lại đến nhanh như thế, nhớ ngày nào chú Từ Lương còn tràn đầy nhiệt huyết, chăm lo công quả cho Chùa. Nay đôi mắt đã trở thành vô dụng, nhưng công năng niệm Phật vẫn tràn đầy, không bỏ một khóa tu nào.

Đến từ Nürnberg cũng có nhiều người quen thuộc, nhưng đặc biệt lần này có sự xuất hiện của đạo hữu Đức Hương, người đã có một thời vang bóng trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Đức. Chị Diệu Thành ở Hòa Lan vẫn còn giữ được một cuốn báo Viên Giác số IV phát hành năm 1980 khổ A5, trong đó có thông tin các chuyến hoằng pháp đầu tiên của HT Như Điển tại Hoa Kỳ.

Chuyện bên lề của khóa tu thì nhiều vô số kể, nhưng giật gân nhất vẫn là chuyện cảm cúm của mọi người. Chưa bao giờ các con vi khuẩn lại cả gan dám đánh gục đến gần hết nửa đạo tràng. Mặc dù Ni Sư Linh Thứu đã làm biết bao nhiêu chanh muối với mật ong cho mọi người giải cảm sau ngày tu miêm mật, nhưng mọi người cúng dường nhau vài con virus khá nhiều, thật ra phải nói là hàng triệu con mới đúng, khiến tình hình không khá lên được. Trước tiên là Thầy Hạnh Giới khan tiếng rồi sốt li bì, kế đến Sư Cô Tuệ Trí, rồi Sư Cô Tuệ Đàm Hương… Sang phần Phật Tử thì ôi thôi kể sao cho xiết, tôi được nhờ vả đi mua thuốc cảm cho cả phòng. Bữa ăn tối thay vì phở bún đã thay món khẩn cấp sang tô cháo nóng. Thật tội nghiệp cho chị Nguyên Hạnh yêu quý của tôi, mặc dù chị đã “Phòng thủ Đông Nam Á” thật kỹ lưỡng với dầu gió và áo len, nhưng ai đó trong phòng đã mở toang cửa sổ khá lâu khiến chị bị gió lùa làm ngã gục bỏ tu mất 2 ngày. Cứ đến buổi giao mùa là cảm cúm thế thôi, lỗi phải ở đâu không cần biết cứ đổ cho bầu khí quyển đã bị con người hâm nóng bằng khí thải CO2 quá nhiều nên mùa đông không lạnh đủ để làm giá băng các con vi khuẩn.

Trở về với Dòng Sông Tịnh Độ của chúng ta, dòng sông ấy đã chuyên chở được những gì? Và chúng ta đã thu nhận được những gì do dòng sông bồi đắp từ các lớp phù sa? Phải chăng còn tùy vào căn cơ của mỗi chúng ta nhận nhiều hay ít, nhưng dòng sông không biết đợi mà sẽ chảy hoài chảy mãi không thôi.

 Dong Song Tinh Do (3)Dong Song Tinh Do (2)

Hoa Lan - Thiện Giới.

Mùa Xuân 2016.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14233)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16705)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24174)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20592)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18839)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21342)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18294)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19856)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14856)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12979)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13973)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13160)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14017)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17649)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15417)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14716)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14464)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17870)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21917)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19471)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20609)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25153)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16885)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14732)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19003)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22013)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20641)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25299)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15777)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15785)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20735)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17021)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18644)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20033)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39323)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31523)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30670)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36034)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23885)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26557)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant