Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

10 Tháng Mười 201607:43(Xem: 7574)
Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

NHÂN QUẢ QUA MỘT CÂU CHUYỆN 

Chân Hiền Tâm

Nhân quả qua một câu chuyện

Nhân quả là thực lý chi phối thế giới này.

Nghĩa là …

Mọi thứ đều có nhân duyên, không có thứ gì tự nhiênxuất hiện, dù là ở mặt vật chất hay tinh thần.

. Nếu mình có những ý nghĩ thiện và tạo được các hành vi thiện thì mình sẽ có được những cảnh giới tốt đẹp trong đời sống của mình.

. Nếu mình có những ý tưởng xấu và chẳng may mình thực hiện được những ý tưởng đó thì quả báo khổ nạn không sao kể xiết.

Xin nghe câu chuyệnHòa thượng Thiện Siêu đã kể:

Một hôm nọ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) và hoàng hậu Mạt-lợi (Mallika) đến tịnh xá Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp. Vua cưỡi ngựa, còn hoàng hậu ngồi trên kiệu do 4 người Phiến-đề-la khiêng vác. Đến nơi, trong lúc vua và hoàng hậu vào nghe thuyết pháp thì 4 tên khiêng kiệu nằm chờ ở cổng tịnh xá. Trong lúc bọn chúng ngủ mê, một kẻ gian lén trộm lấy ngọc mani trên kiệu báu của hoàng hậu. Khi ấy cận vệ của hoàng hậu ra ngoài xem chừng, thấy mất ngọc Mani liền nghi 4 tên này ăn trộm, nên nổi giận lấy roi đánh tụi nó. Bị đánh đau quá, một tên bỏ chạy vào tịnh xá kêu oan làm mọi người chú ý.

Phật báo ngài A Nan:

- Người hãy ra bảo cận vệ đừng đánh oan người vô tội. Vì 4 người ấy chính là thầy đời trước của hoàng hậu.

Hoàng hậu nghe Phật nói như vậy, liền đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn ! Như lời Thế Tôn nói thì 4 người khiêng kiệu cho con chính là thầy đời trước của con. Con thật mê muội không rõ, cúi xin Thế Tôn từ bi nói rõ nhân duyên cho chúng con được biết.

Phật nói như sau:

- Trong một kiếp quá khứ, gặp lúc hạn hán, thiên tai, dân chúng đói khát, khi ấy có 5 vị Tỳ-kheo lười biếng không học giáo lý, kinh luận, không tu hành nghiêm túc nên không ai cúng dường, bị đói khát khốn khổ. 5 người bày mưu với nhau: Mỗi người đi xin, sắm được tọa cụ, tìm chỗ đồng trống quét dọn sạch sẽ, rồi làm bộ ngồi thiền nhập định để người đời trông thấy tưởng là thánh nhân, sẽ đem đồ ăn đến cúng dường. Quả nhiên đúng như vậy! Dân chúng từ từ đồn nhau tới cúng dường bậc thánh nhân.

Khi ấy có một nữ cư sĩ thuần thành tên là Đề Vi nghe tin đồn, liền sai người đi dò hư thực. Người đi dò tin về thưa rằng: “Có 5 vị thánh nhân ngồi tu trong núi, người ta đua nhau xúm lại hầu hạ cúng dường”.

Đề Vi nghe xong, trong lòng rất hoan hỷ, sai người sắm sửa hương hoa, kỹ nhạc, trăm món thức ăn đi đến chỗ 5 thầy Tỳ-kheo để cúng dường.

Đến nơi làm lễ, thiết đãi cúng dường 5 thầy Tỳ-kheo xong. Đề Vi và quyến thuộc cung kính chắp tay thưa với 5 thầy Tỳ-kheo rằng:

- Quý ngài là bậc chân tu, đức dày, phước lớn. Đệ tử muốn thỉnh quý ngài quang lâm đến bần xá, để trọn đời cúng dường hầu hạ. Nhà đệ tử có vườn cây thanh tịnh, suối ao trong mát, cúi xin quý ngài từ bi thương xót hứa khả.

Thấy bà Đề Vi và quyến thuộc thành khẩn cầu thỉnh đôi ba lần, 5 vị Tỳ-kheo nhận lời.

Đế Vi hoan hỷ từ tạ trở về, sai người chuẩn bị xe báu, đến rước 5 thầy Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Nhà bà có vườn cây vuông vức mười mẫu, trong đó có suối trong, ao mát, nhiều hoa thơm quả lạ. Bà cho xây dựng phòng ốc bằng bảy báy, sắm đủ giường nệm và tọa cụ tốt đẹp, rồi mời 5 thầy Tỳ-kheo về ở và trọn đời cung cấp phụng sự đầy đủ.

Khi ấy, 5 thầy Tỳ-kheo được chủ nhân cúng dường hậu hỷ, khởi nghĩ rằng: “Có gì sung sướng cho bằng. Người ta sinh ra ở đời phải tìm mọi cách kiếm sống qua ngày, dù được như ý nhưng cũng không thể bằng bọn ta, chẳng nhọc thân mà lại được hưởng phước lợi, đây há chẳng phải nhờ sức trí tuệ hay sao?”

5 thầy Tỳ-kheo tuy được bà Đề Vi hết lòng trọng đãi, cúng dường đầy đủ các thứ cần dùng, nhưng lòng tham chưa thỏa, muốn kiếm thêm tiền của để sau này thọ hưởng riêng thú vui ngũ dục. Họ bàn với nhau rồi sai một người đi dạo trong làng xóm, rao nói mọi người :”4 thầy tỳ kheo kia, ở yên một chỗ vắng lặng, giữ gìn giới cấm, dứt hẵn rượu thịt, tu thiền chỉ quán, chứng nghiệp vô lậu. Chẳng bao lâu sẽ chứng quả A-la-hán, thật là bậc vô thượng phước điền trong thiên hạ”.

Nhiều người nghe thấy, đua nhau mang đến đủ thứ tiền tài ẩm thực, cung kính cúng dường… như thế nhiều năm. Còn bà Đề Vi vẫn một lòng tin kính, tiếp tục cúng dường, không chán. Sau khi chết, bà được tái sinh lên cõi trời Hóa Lạc.

Còn năm vị Tỳ-kheo kia, chuyên làm việc lừa đảo, lợi dụng lòng tốt của kẻ khác, nên sau khi mạng chung, sinh vào địa ngục tám nghìn ức kiếp chịu quả báo rất khổ. Sau khi hết tội địa ngục, phải chịu thân ngạ quỷ trải qua tám nghìn kiếp. Sau khi hết nghiệp ngạ quỷ, phải làm thân súc sinh để đền trả sự cúng dường đời trước cho chủ nhân.

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

- Bà Đề Vi thuở đó chính là hoàng hậu hiện nay, còn 5 thầy Tỳ-kheo, bây giờ là 5 người khiêng kiệu cho hoàng hậu.

Vua bạch Phật rằng:

- Theo như lời đức Thế Tôn nói thì có 5 người nhưng sao chỉ thấy có 4 người khiêng kiệu, còn một người nữa ở chỗ nào?

Phật bảo vua:

- Người thứ năm là người thưởng ở trong cung quét dọn cầu xí và đổ phân.

Hoàng hậu nghe xong rùng mình rởn ốc, ôm lòng kính sợ, bạch với Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Nay con biết được họ là thầy con đời trước, lòng con rất lo sợ phạm tội. Bởi vì đối với bậc thầy của mình thì phải cung kính lễ bái mới phải. Mà nay trở lại sai khiêng kiệu không khác gì trâu ngựa. Vì nhân duyên đó nên con rất lo sợ, cúi xin Phật thương xót dạy con sám hối.

Phật bảo hoàng hậu:

- Hoàng hậu không có tội lỗi gì nên chớ kinh sợ. Chúng sinh nhiều căn tánh, hạnh nghiệp không giống nhau, làm lành thì hưởng phước, làm ác thì thọ tai ương. Hoàng hậu đời trước tâm thanh tịnh, ưa cúng dường các bậc tu hành, nhờ phước đức đó nên sinh ra mỗi kiếp thường gặp minh sư. Cho đến ngày nay, hưởng phước gặp Phật ra đời, được nghe Chánh pháp, tín thọ phụng hành, nên không có tội lỗi chi.

Sau khi nghe Phật khai thị, hoàn hậu muốn tha cho bốn tên Phiến-đề-la, không dám sai khiến nữa và cầu xin Phật thuyết pháp cho chúng hiểu đạo, bỏ ác tu thiện để mau thoát khổ.

Phật bảo hoàng hậu:

- Nay nếu muốn Ta khai hóa thì phải gọi người đổ phân trong cung lại đây luôn.

Hoàng hậu liền sai sứ đi gọi người thứ năm đến. Sứ giả vâng lệnh đi gọi, trong giây phút cả 5 người Phiến-đề-la nhóm lại đứng trước Phật.

Đức Thế Tôn từ bi hỏi thăm:

- Các ngươi thân thể có được mạnh khỏe, an ổn, vui sướng chăng?

Năm người nổi giận nói rằng:

- Chúng tôi ngày đêm cực khổ, bị đánh đập sai sử không được nghỉ ngơi, có vui sướng gì đâu, Phật há không biết hay sao mà lại hỏi các ngươi có an ổn, vui sướng chăng?

Phật bảo 5 người rằng:

- Sự khổ của các ngươi ngày nay đều do đời trước gian dối nịnh hót, đem tâm bất thiện, lường gạt người khác, để thọ hưởng cúng dường. Nghiệp tội đó đền trả đến nay còn chưa hết. Nếu muốn thoát khỏi quả báo ác thì phải hết lòng sám hối, cải dữ tu hành.

Bọn Phiến Đề La nghe Phật nói, đùng đùng nổi giận quay lưng đi, không muốn nghe nữa. Phật bèn dùng thần lực hiện ra một hóa Phật đứng trước mặt bọn chúng, dùng phương tiện khuyên bảo sám hối. Nhưng bọn chúng tức mình quay mặt về hướng Đông. Cũng thấy hóa Phậttrước mặt. Quay về hướng Tây, cũng có hóa Phật. Quay hướng nào cũng đều có Phật đứng trước mặt. Bọn chúng bí quá la lên:

- Chúng tôi là người tệ ác. Phật không thương xót mà còn bao vây, áp đảo thêm nữa!

Khi ấy, Thế Tôn liền thâu nhiếp hóa Phật lại thành một Phật và bảo đại chúng:

- Các ngươi phải biết chúng sinh tội nghiệp có hai món chướng. Một là nghiệp chướng, hai là phiến não chướng. Người tội nhẹ thì có phiền não chướng, người tội nặng thì có nghiệp chướng. Bọn Phiến Đề La đây có đủ hai chướng. Ví tội chướng quá nặng nên không thể nghe được lời giáo hóa của Phật.

Hoàng hậu thấy Bọn Phiến Đề La không chịu nghe lời Phật giáo hóa, buồn cảm thương tâm nói với năm người rằng:

- Ta nay đã rõ nhân duyên đời trước nên tha cho các ngươi, muốn đi đâu tùy ý.

Bọn chúng quỳ gối khóc lóc thưa với Hoàng hậu:

- Muôn tâu lệnh bà, chúng tội phụng sự hầu hạ không biết có lỗi gì mà lệnh bà lại đuổi chúng tôi? Nếu có gì không vừa ý, cúi xin lệnh bà rộng lòng tha thứ, cho chúng tôi hầu hạ như trước.

Hoàng hậu khiêm nhường từ chối đôi ba lần, nhưng bọn Phiến-đề-la nhất định ở lại, không chịu đi đâu hết. Túng thế Hoàng hậu cầu cứu đến Phật:

- Thưa Thế Tôn! Con thiệt tình dung thứ cho bọn Phiến-đề-la mà chúng nhất định không chịu đi, nhất định ở lại trả nợ, vậy phải làm sao đây?

Phật bảo hoàng hậu:

- Bọn chúng trả nợ đời trước chưa hết, nhân duyên bó buộc nên không đi được. Hoàng hậu chẳng cần làm sao, cứ để chúng phụng sự như trước, đến khi nào trả hết nợ tự động chúng sẽ ra đi.

Mới thấy…

. Nếu tâm địa mình lương thiện, mình có tâm tôn trọng Phật – Pháp – Tăng thì dù mình có cúng dường nhầm người, quả báo mình nhận được vẫn tốt. Ở đây, cần phân định cho rõ: Phu nhân bị 5 người kia dùng bề ngoài lường gạt, thành Phu nhân cúng dườngcúng dường cho bậc chân tăng. Không phải thấy 5 người kia bê tha, đội lốt tăng chúng mà vì tư tình, vì được thỏa mãn cái tôi mà vẫn cúng dường. Phu nhân chỉ vì lòng tôn trọng Phật – Pháp - Tăng mà cung dưỡng. Do tâm đó mà quả báo Phu nhân nhận được vẫn tốt đẹp. Với tâm lượng sau thì quả báo không như vậy. Cho nên, trong kinh Niết-bàn Phật nói “Nến cúng dường cho người đáng cúng dường. Không cúng dường cho người không đáng cúng dường”.

. Nhân gây rồi nếu không chuyển tâm tu hành thì sẽ trả quả cho hết mới thôi. Có tha cũng không chịu buông.

. Dùng áo Như Lai để gạt gẫm chúng sinh mưu lợi, quả báo đọa địa ngục vô lượng kiếp, làm thân ngã quỉ vô lượng kiếp, rồi sau mới làm trâu làm ngựa trả cái quả ấy.

. Tâm sân hận khiến chúng sinh không thấy được lẻ phải, không nhận được điều tốt đẹp trước mắt. Dù Phật có hiện ra trước mắt cũng không thể thấy. Tâm sân hận đáng sợ như vậy. Cần cẩn thận với tâm sân hận của chính mình.  

. Nghiệp của chúng sinh, nếu không tự chuyển tâm cứu mình thì dù có năng lực tu hành như Phật cũng chẳng thể cứu. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24140)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18814)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18267)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12961)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13947)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13144)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19448)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21993)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15767)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20711)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18626)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39303)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31502)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26544)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant