Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện

17 Tháng Mười Một 201611:10(Xem: 8810)
Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện
Ý NGHĨA CỦA SỰ CẦU NGUYỆN 

Thích Viên Giác

Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện

 

I. LỜI MỞ ĐẦU
Cầu nguyện
 là một nhu cầu tinh thần của con người, một nhu cầuchính đáng. Trước hết là giải toả các ức chế tâm lý do áp lực củahoàn cảnh, của thất vọng trong tình cảm, những bức xúc trong các mối quan hệ xã hội. Thứ đến cầu nguyện là thể hiện các ước mơ, niềm hy vọng của con người về đời sống hiện thực hay lý tưởng, dù sao cầu nguyện vẫn là một biểu hiện của thiện tâm, nghĩa là khi một người chấp tay, cúi đầu trước bàn thờ Phật, Thánh, lòng họ trở nên khiêm hạ, cái ” Ta” trở nên nhỏ bé, lương tâm thổi dậy và tâm hồn họ được bình hoà.

Sự cầu nguyện trong đạo Phật còn là một pháp môn tu tập của người phật tử, nhờ cầu nguyện mà nguyện lực của họ mạnh mẽ,niềm tin tăng trưởngthiện nghiệp được phát huy, ác nghiệp được tiêu trừ, tâm xu hướng lộ trình giải thoát.

Trong ý nghĩa thông tục, cầu nguyện là một biểu hiện lòng nhớ ơn, đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân… một biểu hiện của tình thương yêu, quan tâmlo lắng đến nhau như các cầu nguyện: cầu siêu,cầu ansám hối …

Sự cầu nguyện ban đầu như là biểu hiện của sự lo lắng vị kỷ, nhưng dần dần do bản chất của sự cầu nguyện sẽnâng cao tinh thần vị tha. Những lời khấn nguyện, niệm hương, bạch Phậtphục nguyệnhồi hướng, trong đạo Phật đều mang tính 2 mặt cho mình và cho chúng sinh. Nghĩa của sự cầu nguyện là nâng cao đời sống tinh thầnvà củng cố niềm tin cho chính mình và tha nhân.

II. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN

Hình thức cầu nguyện, khái quát gồm 4 loại: cầu siêu, cầu an, cầu sám hối, cầu tiến bộ tâm linh:

1. Cầu siêu: là cầu nguyện cho ông bà, cha mẹthân quyến đã qua đời được siêu thoát, được an lành thế giới bên kia. Như vậy cầu siêu là biểu lộ sự quan tâmlo lắng, sự thương yêu giúp đỡ cho người thân của mình. Sự quan tâm đối với người đã chết không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện. Nhu cầu và thực hành cầu siêu nói lên nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo vừa nhân bản vừa rộng rãichấp nhận ngoài thế giới hiện thực này còn cóthế giới khác mà ta gọi là vô hình.

2. Cầu an: là cầu nguyện cho người thân của mình hoặc chính bản thân mình được an lànhvượt qua các tai ương hoạn nạn. Vậy cầu an cũng thể hiện mối quan tâm lo lắng và thương yêu giúp đỡ cho tha nhân, nhất là trong lúc mình không làm được gì khác hơn là cầu nguyện. Nhu cầu cầu an cũng nói lên tinh thần đạo đức của ngườiphật tử khi đứng trước nổi bất hạnh của kẻ khác.

3. Cầu sám hối: Là cầu nguyện cho những lỗi lầm vụng dại của mình đã làm không còn tái diễn nữa, bày tỏ sự hối hận ăn năn, mong sự chứng giám và tha thứ của các đấng thiêng liêng hay cả của những người mà mình đã gây khổ cho họ. Có khi người ta cũng cầu sám hối giúp cho người thân của mình. Nhu cầu sám hối nói lên tiếng nói của lương tâm, của đạo đức và của trí tuệ.

4. Cầu tiến bộ tâm linh: Là cầu nguyện cho tâm hồn của mình được phát khởi thiện tâm, phát huy được trí tuệ vượt qua nghiệp chướngma chướng để sớm thành tựu được mục tiêu giải thoát của mình. Nhu cầu cầu nguyện tâm linh tiến bộ nói lên tinh thần quyết tâm cầu tiến, nói lên ước vọng tìm kiếm chân lý của ngườu phật tử.

Tóm lạimục đích cầu nguyện là mang đến lợi ích cho kẻ chết, người sống, đem đến thiện pháp tăng trưởngác pháp tổn giảm, tâm lực củng cốniềm tin vững chãi hơn.

III. ĐỐI TƯỢNG CẦU NGUYỆN

Tùy theo niềm tin tôn giáotín ngưỡng mà có các đối tượng cầu nguyện khác nhau. Đối với người phật tử, đối tượng cầu nguyện căn bản là Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) cụ thể thì các Đức Phật Bổn Sư, Phật Di Đà, PhậtDược SưPhật Di Lặc, các vị Bồ tát, thánh hiền… Đối tượng cầu nguyện dân gian thì có tổ tiênthần thánh (thánh mẫu, quan công…) ông bà cha mẹ đã qua đời, các linh hồn vất vưởng cho đến các gốc cây, cụa đá hay các sinh vật như cọp beo… Tóm lại tất cả mọi thứ nếu được coi là thiêng liêng.

Người phật tử chân chính chỉ cầu nguyện đối với Tam bảo, các Đức Phật, các vị Bồ tátThánh Tăng. Những Phật tử chưa thuần thục đạo pháp họ vừa cầu Phật, vừa cầu thần, nếu cần họ có thể cầu luôn cỏ cây, đá núi… NhữngPhật tử như thế Đức PhậtBồ tát đối với họ không khác các vị thần bao nhiêu.

Vì lý do là đối tượng của cầu nguyện nên Đức Phật Bồ tát mang sắc thái thần thánh đầy quyền năng, không ai coi Phật, Bồ tát là người bình thường, nên đối tượng của cầu nguyện là mang tính thiêng liêng. Đã là đối tượng linh thiêng thì ranh giới giữa đối tượng này với đối tượng kia về bản chất tâm lý hầu như không có, tất cả đều bình đẳng. Đối tượng được coi là linh thiêng thường là không hiện thực, nhưng đầy quyền năng siêu việt. Nếu một đối tượng linh thiêng mà hiện thực thì sớm muộn gì cũng bị bỏ quên và bị bôi bác bởi chính con người thờ họ. Một người khi cha mẹ còn sống họ đối xử bình thường đôi khi coi thường nữa, nhưng khi cha mẹ mất đi họ trở nên tôn trọng cung kính rất đặt biệt, họ thể hiện niềm tôn trọng ấy băng nhiều cách để gọi là có hiếu, họ than thở, tiếc nuối ân hận… Nếu cha mẹ họ nghe lời khấn nguyện của họ mà xúc độngsống lại thì họ vẫn đối xử như xưa .

Đối tượng của cầu nguyện, tuỳ theo trình độ văn hoá, phong tục, tập quán, tôn giáotín ngưỡng mà khác nhau, đó là một thế giới muôn màu muôn vẻ. Dù sao đã là đối tượng của cầu nguyện thì phải linh thiêng, phải hoàn hảo,quyền năng vô tận và có tác dụng ảnh hưởng đến tâm thức của người cầu nguyện.

IV. TÁC DỤNG CỦA CẦU NGUYỆN

Có người cho rằng cầu nguyện là vô ích, không có tác dụng gì, làm sao có tác dụng được khi lạy lục cầu xin trước một pho tượng bằng đất, đá, xi măng, gỗ …? Nghĩ như vậy quá duy lý. Tượng Phật, Tượng thánh chắc chắnkhông phải ông Phật thực mà đó chỉ là tượng trưng hay biểu tượng (symbolizes). Điều quan trọng là yếu tố tinh thần đằng sau pho tượng và trong tâm thức của người cầu nguyện. Không ai lại khờ khạo lạy lục cục đá hay gốc cây cả, chẳng qua là cục đá hay gốc cây ấy có giá trị biểu tượng thiêng liêng ở đằng sau. Khi ta nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ tổ quốc không phải là ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa tinh thầnmà tấm vải đeo mang. Khi một vật thể là vật chất nhưng trở thành đối tượng thiêng liêng thì nó không còn thuần tuývật chất nữa mà thành đối tượng có sức sống, có tác dụng đối với con người và hoàn cảnh xung quanh.

1. Tác dụng của cầu siêu: Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo phù hộ cho linh hồn đã mất được nhẹ nhàng siêu thoátở thế giới bên kia cầu được sinh về cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà cầu như vậy có siêu không?

Ở trong kinh Địa Tạng có đề cập đến tác dụng kinh cầu nguyện cho người chết rằng: Khi tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện thì công đức có được 7 phần, người tụng được sáu, người chết được một phần. Tại sao người được cầu nguyện chỉ được một phần? điều dễ hiểu là khi tụng kinh Tam nghiệp thanh tịnhcông đức phát sinh năng lực công đức có trước hết là người tụng, rồi sử dụng năng lượng công đức ấy hướng đến người đã chết tất nhiên người chết sẽ nhận được một, phần năng lượng ấy, trong khi người tụng là người suất sinh công đức.

Trong kinh Vu Lan đề cập đến sức mạnh chú nguyện của chư Tăng, nhờ sức mạnh của Tăng lực mà bà Thanh Đề thoát khổ, năng lượng của Tăng là năng lượng tập thể nên có tác dụng lớn, nó tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ vào tâm thể của bà Thanh Đề làm cho bà thay đổi tận gốc rễ nghiệp bất thiện của mình mà thoát khổ. Trong kinh Địa Tạng cũng đề nghị phương pháp giúp cho người chết thoát khổ bằng cách xử dụng tài sản của họ vào việc công ích bố thícúng dường hồi hướng công đức cho họ sẽ được lợi ích lớn. Tất cả những điều diễn tả trong kinh muốn nói lên một sự thực rằng nếu xử dụng năng lượng tâm linh đúng chánh pháp sẽ tạo khả năng biến chuyển hay thay đổi tâm thức và đời sống của một chúng sinh đau khổtrường hợp bà Thanh Đề là một ví dụ.

Cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn có ý nghĩa bày tỏ lòng tri ân và báo ân đối với các bậc Tiền nhân đã sinh ra vànuôi dưỡng mình nên người. Sự biết ân và báo ân là một đức tính tốt, hiền thiện, là đạo đức xã hội, là một nét văn hoá văn minh của loài ngườiCon người nếu không biết cội nguồn của mình, không biết ơn, nghĩa thì người ấy sẽ chết mất gốc; quá khứ không rõ ràng thì tương lai sẽ mờ mịtCầu nguyện cúng bái ông bà cha mẹ mong cho họ được siêu thoát là bài học về giáo dục đạo đức quan trọng: sự hiếu thảo của con cái, sự kính trọng người già cả, sự khiêm tốn thương yêu nhau đều tuy thuộc vào các sinh hoạt tinh thần mang tính truyền thống cao đẹp này.

2. Tác dụng của cầu an: Cầu nguyện cho mình hay người thân của mình được bình an là một cách thển hiện sựthương yêu, là một nhu cầu khẩn thiết. Nhưng cầu như vậy có hiệu quả không? Người xưa nói: ” Linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Khi ta có niềm tin ta sẽ có sức mạnhSức mạnh tinh thần ấy gọi là năng lượng tâm linh, nếu ta cố ýchuyển năng lượng tâm linh ấy đến một người nào đó thì có tác dụng ảnh hưởng vào người ấy, đó là điều khó tin nhưng có thực. Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác, giữa tâm linh và thế giới khách quan là mối quan hệ duyênsinh tương tác lẫn nhau. Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hoá đến vật chất hay sinh vật, các vị thiền sư có thể cảm hoá hổ báo hung dữ, ngay cả loài thảo mộc nếu được thương yêu chúng cũng tươitốt hơn, đã có nhiều cuộc thí nghiệm của các nhà khoa học để chứng minh cho sức mạnh tinh thần này. Theo phong tục dân gian, khi người gia chủ qua đời thì người ta “để tang” cho cây cối xung quanh nhà bằng cách cột một mảnh vải trắng lên cành cây với hy vọng rằng cây sẽ bớt đau dớn mà khô héo. Điều đó có vẻ huyền hoặc nhưng được đúc kết từ kinh nghiệm dân gian rằng đã từng có cây cối khô héo và chết khi chủ nhân của nó qua đời, khi người chủ còn sống thương yêu săn sóc cây cối, hằng ngày ông ta phóng ra từ trường nhân diện haynăng lượng tâm linh vào cây cối, chúng quen sống với luồn điện từ như vậy, nay đột ngột mất đi chổ dựa ấy nhưcon người mất đi chổ dựa tình cảm, sẽ cảm thất hụt hẫng lạnh lùng… Cần phải có một sự quan tâm, một thay thế dòng sóng từ trường mới, đó chính là hành động của người chủ nhân kế thừa, nên có vấn đề để tang cho cây cối.

Khi một người phóng ra một năng lượng tâm linh qua sự tập trung cầu nguyện, luồng năng lượng ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh, bị tai nạn hay đối tượng được cầu nguyện. Người phát ra mộtnăng lượng tâm linh mà năng lượng ấy thuộc xu hướng nào nó sẽ tạo một hấp lực thu hút luồng năng lượng tương ứng trong không gian (có thể gọi là năng lượng của các Đức Phật hay Bồ tát) mà ta gọi là tha lực. Tuy theo sự tương tác ở mức độ nào mà khả năng, hiệu quả lớn hay nhỏ. Trong đời sống hằng ngày ta thường gặp nhau và chúc lẫn nhau “mạnh khoẻ” ” bình an” ” hạnh phúc”… nếu những lời chúc ấy có chú tâm, có thành tâm, có nhất tâmnó sẽ tạo ra năng lượng lành mạnh giúp ích cho người đươọc chúc.

Cầu nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích cực của từ bivị tha, do đó tạo nên “đức độ”. Tâm ta càng xu hướng về vô ngã vị tha thì mối tương tác (cảm ứng) giữa tâm ta và tâm PhậtBồ tát (tha lực) sẽ chặt chẽ, do đó tác động mạnh đến người hay hoàn cảnh mình cần nguyện. Đó là sức mạnh vô hình nhưng có thực. Dĩ nhiên không phải ai cầu cũng ứng, cũng được an. Mọi tác dụng cảm ứng đều có điều kiệnnhân duyên có đủ hay không; một ngọn lửa bùng cháy phải đủ các điều kiện cho sự cháy, vậy không nên coi cầu an là phương pháp tối thượng mà chỉ là một “trợ duyên” Điều quan trọng vẫn là “nội lực” hay “nghiệp lực”. Cầu an đúng nghĩa là chuyển hoá nghiệp lực bằng cầu nguyện đó là mặt tiêu cực, còn mặt tích cực thì phải xây dựng một tâm đức bằng bố thí,phóng sanhcúng dường Tam bảo, giúp đỡ tha nhân… như vậy là tích cực chuyển hoá nghiệp lực, cần cả hai mặtnhư vậy kết quả mới tốt đẹp.

V. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẦU NGUYỆN TRONG ĐẠO PHẬT

Trong kinh Trung A Hàm I, Kinh Ca Di NiĐức Phật nói về sự vô ích trong cầu nguyện đối với một số trường hợpnhư sau: “Có những người phạm chí tự cho mình có khả năng cầu nguyện, giúp cho người khác được sinh lên cõi trờiĐức Phật bác bỏ lời tuyên bố ấy, Ngài đưa ra một số trường hợp như: một người hung dữ, độc ác, luôn làm 10 điều ác. Người này sai khi chết được nhiều người tập trung lại cầu nguyệnvan xin thì cũng không thể lên cõi trời được. Giống như một người ôm một tảng đá lớn ném xuống sông rồi nhiều người khác tập trung cầu nguyệnvan xin “mong tảng đá nổi lên”, điều đó không thể được. Ngược lại một người làm 10 điều thiện sau khi người ấy chết, nhiều người tập trung cầu nguyện van xin “mong anh ta vào địa ngục” điều đó không thể xảy ra. Giống như một người ôm một thùng dầu đổ xuống sông, nhiềi người tập trung cầu nguyện “mong cho dầu chìm xuống đáy sông” điều đó không thể có được.

Như vậy giới hạn của sự cầu nguyện rất rõ: cầu nguyện không phải muốn gì được nấy, không phải là xin ơn trênthoả mãn các yêu cầu bất thiện của mình hay các niềm hy vọng của mình. Cầu nguyện về mặt tâm lý giải toả cácức chế nội tại, một tình trạng bức xúc cao độ, sự tuyệt vọng rất là nguy hiểm, cầu nguyện sẽ làm giảm áp lực ấy. Mặt khác cầu nguyện là bày tỏ những ước mơ, những hy cọng tạo nên khích lệ tinh thần tăng thêm sinh lực chocon người vốn gặp nhiều đau khổ.

Điều chính của sự cầu nguyện trong đạo Phật đó là sự chuyển hoá nghiệp lực. Nếu mình tạo tác ác nghiệp thì cầu nguyện là vô íchcầu nguyện theo hướng chuyển ác thành thiện thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến khích chấp nhận.

Thông thường khi nói đến cầu nguyện ta thường nghĩ là nhờ đến tha lực của Phật, Thánh… nhưng cầu nguyệntrong Phật giáo không phải thuần tuý nhờ vào tha lực mà nhờ vào tự lực là chính, cho nên câu nói: “Linh tại ngã bất linh tại ngã” diễn tả đúng ý nghĩa này.

Tại sao có người cầu nguyện linh ứng, người khác lại không? Điều đó tuỳ thuộc vào tự lực hơn là tha lực. Không phải Phật không thiêng mà chính là “tự lực” chưa đủ, nói cách khác lòng thành kính, sự thành tâmnhất tâm vànghiệp lực chưa đủ. Khi một người niệm Phật cầu nguyện vãng sanh cực lạc thế giới, nhưng niệm lực không đủ thì Phật không tiếp dẫn được. Trong kinh A Di Đà nói rõ: “Nếu có chúng sinh trước khi lâm chung mà niệm từ một cho đến mười niệm trong trạng thái” nhất tâm bất loạn” thì liền vãng sanh cực lạcChứng tỏ cầu nguyện vẫn dựa vào“tự lực” là chính.

VI. KẾT LUẬN

Cầu nguyện là một nhu cầu làm lắng dịu nỗi lo âusợ hãi phiền muộnthất vọngCầu nguyện cũng là một cách thể hiện những ước mơ thầm kín, niềm hy vọngniềm tin vào cuộc sống. Qua các phương cách và đối tượng cầu nguyệncon người có thể bày tỏ được niềm thương, nỗi nhớ sự biết ơn và báo ơn đối với ông bà cha mẹ, những người thân thuộc… Như vậy cầu nguyện là một loại hình văn hoá đem lại niềm tincủng cố đạo đức, thuần hoá tánh hung dữ của con người.

Hơn nữa, cầu nguyện làm tăng thêm nghị lựccủng cố niềm tin để hướng dẫn đời mình đi theo chân lýlý tưởngcao thượng.

Khi con người chưa làm chủ hoàn toàn thân tâm chưa vượt qua được những nỗi lo âusợ hãi, chưa đạt đượctrình độ tu chứngtự tại vô ngại thì cầu nguyện có tác dụng hổ trợ cho mình vững tiến trên đường đạo. Chỉ cần có sự thành thậtthành tâm và mục đích hướng thượng, hướng thiện thì sự cảm ứng của Phật lực… chắc chắn xảy ra. Điều cần thận trọng là đừng rơi vào cuồng tíncực đoanỷ lại. Nếu cầu nguyện không đúng chánh pháp haylạm dụng cầu nguyện để thực hiện tham vọng riêng tư thì không những không linh ứng mà còn phản tác dụng, tạo thêm ác nghiệp./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14685)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14240)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16722)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24193)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20603)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18849)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21357)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18308)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19873)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14862)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12989)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13982)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13171)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14028)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17662)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15421)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14719)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14474)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17883)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21928)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19484)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20616)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25166)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16894)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14735)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19009)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22019)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20650)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25314)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15789)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15796)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20744)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17031)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18654)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20045)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39340)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31530)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30685)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36044)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23893)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26573)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant