Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Cảnh Nhất Như

03 Tháng Ba 201707:55(Xem: 8793)
Tâm Cảnh Nhất Như

TÂM CẢNH NHẤT NHƯ

Nguyễn Thế Đăng

Tâm Cảnh Nhất Như

 

Nhìn về quá khứ, phần đông chúng ta thấy đời mình có nhiều nỗi khổ hơn niềm vui; bởi vì nỗi khổ thì in sâu dấu vết hơn niềm vui. Nhưng không nói về quá khứ, về tương lai, mà ngay trong hiện tại, chúng ta cũng đang khổ vì đang chứa chấp và góp nhặt thêm nguyên nhân của khổ:

Xá-lợi-phất nên biết
Ta dùng mắt Phật xem
Thấy sáu đường chúng sanh
Nghèo cùng không phước huệ.
Vào đường hiểm sanh tử
Khổ tương tục không dứt
Bám sâu nơi năm dục
Như con trâu mến đuôi.
tham ái tự che
Đui mù không thấy gì
Chẳng cầu thế lực Phật
Cùng pháp dứt hết khổ.
Vào sâu các tà kiến
Vì khổ muốn bỏ khổ
Vì những chúng sanh ấy
khởi tâm đại bi
(Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện, thứ 2)

Chúng sanh chúng ta khổ vì nghèo cùng cả phước lẫn huệ, vì bám sâu năm dục, vì tham ái tự che, vì vào sâu các tà kiến thành đui mù không thấy gì. Chúng ta vẫn đang tích tập những nguyên nhân của khổ như vậy, và cứ thế “khổ tương tục không dứt”.

Thế mà kinh Pháp Hoa luôn luôn nói đến cái thấy biết Pháp giới Nhất chân, một thế giới thông suốt thành một cõi Phật (phẩm Như Lai thần lực, thứ 21), một thế giới là biểu lộ của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Quả thật, chúng ta khổ trên và trong Niết-bàn của Phật, khổ trên và trong Pháp giới Nhất chân, và cái khổ ấy do chúng ta  tự tạo lấy bằng những cái thấy biết sai lầm, méo mó (tà kiến) của mình. Thật sự không đâu có khổ đau ngoài cái thấy biết sai lầm của chúng sanh. Cho nên, muốn “bỏ khổ” cho tận gốc, cả khổ lẫn nguyên nhân của khổ, thì chúng ta phải bỏ cái thấy biết sai lầm do mình tự lập ra để kham nhẫn cái thấy biết của Phật. Cái thấy biết sai lầm của chúng ta chỉ là cái được lập ra một cách hư vọng trên chính cái thấy biết của Phật. Cái thấy biết của Phật thấy ba cõicõi Phật, thông làm một cõi Phật. Sau đây chúng ta tìm hiểu để thực hành theo cái thấy biết của Phật.

Trong ánh sáng của Phật, tức là trong cái thấy của Phật, cõi này thấy chư Phật, Bồ-tát và chúng sanh ở các cõi kia (phẩm Tựa, thứ 1) và ngược lại, trong ánh sáng ấy các chúng sanh ở các cõi khác đều thấy Phật, Bồ-tát và chúng sanh ở cõi ta-bà này (phẩm Như Lai thần lực, thứ 21). Đó gọi là “bấy giờ mười phương thế giới thông suốt vô ngại như một cõi Phật”. Chúng sanh cõi này thấy các cõi kia, và chúng sanh các cõi kia thấy cõi này, tất cả thông suốt không ngại. Cái thấy ấy hay ánh sáng ấy không phân biệt thành chủ thể và đối tượng, không chia cắt thành các sự khác biệt bề ngoài, không có trung tâm, bình đẳng khắp pháp giới. Đó gọi là cái thấy Pháp giới Nhất chân.

Thế mà chính trên cái thấy thông suốt vô ngại thành một cõi Phật ấy chúng sanh chúng ta “bám sâu, tham ái, tự che, đui mù mà không thấy gì”. Chính vì sự tham bám, các tà kiến (phiền não chướngsở tri chướng) đã chia cắt thực tại thành nhiều mảnh, nhiều trung tâm giả lập để pháp giới trở thành thế giới sanh tử, phân mảnh và xung đột, tạo nên khổ đau.

Cho  nên bất cứ lúc nào chúng ta ở trong một cái thấy không phân biệt, không chia cắt, không có trung tâm, đó là lúc chúng ta bắt đầu tiếp xúc, thấy, và đi vào pháp giới Nhất chân này. Cái thấy ấy là cái thấy của tự do, giải thoát.

Phẩm Như Lai thọ lượng, thứ 16, nói:

“Như Lai như thật thấy biết tướng của ba cõi, vốn không có sanh tử, không lui mất, không xuất hiện, không ở đời, không diệt độ, chẳng phải thật chẳng phải hư, chẳng phải như vậy chẳng phải khác đi, chẳng phải ba cõi mà thấy ba cõi”.

Cái thấy ấy là thấy tánh Không, không có sanh không có tử, không lui mất không xuất hiện, chẳng phải như vậy chẳng phải khác đi. Cái thấy ấy soi chiếu tất cả hình tướng mà không đồng hóa với hình tướng nào, do đó không chia cắt thành không gianthời gian. Như tấm gương bao la vô biên (Đại viên cảnh trí), trong đó có đủ các hình bóng vuông tròn xanh đỏ mà gương không vì thế trở thành vuông tròn xanh đỏ. Gương là sự xa lìa tuyệt đối, có tất cả mọi hình bóng mà chẳng dính dáng với cái gì. Đó gọi là “chẳng phải ba cõi mà thấy ba cõi”.

Thấy mà không từ một trung tâm, không dính bám một đối tượng nào, thì đây là cái thấy toàn thể, có tất cả mà chẳng phải là tất cả.

Phẩm Hiện bảo tháp thứ 11, Phật Đa Bảo nói: “Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoahiện ra trước chư Phật, có vị Phật nào muốn chỉ bày thân ta cho bốn chúng, thì các phân thân thuyết pháp của vị Phật ấy ở mười phương thế giới đều tụ lại một chỗ, rồi thân ta mới hiện ra”.

Các phân thân – hay Hóa thân – tụ lại một chỗ thì thân Phật – hay Pháp thânhiện ra. Một nguyên lý của Đại thừa là “Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức”, khi các thức phân tán tụ về lại một chỗ, thì cái toàn thể các thức hợp nhất ấy là tâm, Chân tâm, Nhất tâm.

Ở cấp độ của chúng ta, những phân thân của chúng ta là các sắc thanh hương vị xúc pháp được phóng chiếu qua mắt tai mũi lưỡi thân ý. Không biết điều căn bản này, chúng ta đã tạo cho mình thói quen từ rất lâu chạy theo những phóng chiếu ấy tạo thành “tham ái, bám sâu, tự che”, khiến những phóng chiếu ấy bị nhiễm ô. Sanh tử chúng ta đang trải nghiệm chính là những phóng chiếu bị nhiễm ô ấy. Những phân thân, những phóng chiếu ấy là những đứa con nghèo cùng, lạc lõng, không biết đâu là quê nhà, nguồn cội, đâu là người cha của mình và tiếp tục lang thang lạc loài trong sanh tử. (Phẩm Tín giải, thứ 4).

Thế nên, để chấm dứt sự lạc loài lang thang này, để trở về quê nhà với người cha hằng ngóng đợi, chúng ta phải đưa về, gom tụ những phân thân phóng chiếu lại một chỗ; chỗ ấy chính là nguồn cội từ đó phát xuất mọi phân thân phòng chiếu của chúng ta. Chỗ ấy chính là Pháp thân, là Nhất tâm.

Đưa tất cả bóng trở lại nguồn cội của chúng là tấm gương, lúc ấy chúng ta thấy ra tấm gương. Đưa tất cả sóng trở lại nền tảng xuất phát của chúng là đại dương, lúc ấy chúng ta kinh nghiệm được đại dương. Đưa tất cả tướng trở về một chỗ nguồn cội của chúng, lúc đó chúng ta thấy tánh, nền tảng của tất cả các tướng. Đưa tất cả những phân thân, hóa thânsắc thanh hương vị xúc pháp trở lại cội nguồn nền tảng của chúng là Pháp thân, lúc ấy chúng ta thấy nền tảng Pháp thân của mọi biểu hiện thành thân tâm, thế giới, chúng sanh. Đưa mọi sự vật, thế giới chúng sanh về nền tảng của chúng, lúc ấy thực tại Pháp thân hiện tiền trước mát chúng ta.

Khi những phân thân, phóng chiếu được đặt vào nền tảng của chúng là Pháp thân tánh Không, chúng trở nên “vốn không có sanh tử, không lui mất không xuất hiện, chẳng phải thật chẳng phải hư” như huyễn, như mộng. Đó là “như thật thấy biết tướng của ba cõi”, khi ấy ba cõi vốn là giải thoát.

Qua ba điều trên về cái thấy như thật, chúng ta học được rằng với đạo Phật, không có sự phân chia giả tạo giữa tâm và cảnh, không có chuyện tâm thấy cảnh và cảnh ở ngoài tâm, mà thật ra tâm cảnh là một, tâm cảnh nhất như. Nói cách khác, tất cả chỉ là Nhất Tâm.   

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 256)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12020)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10372)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8854)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10333)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10922)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12031)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8693)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9297)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10037)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11324)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9839)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9375)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10091)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10115)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9300)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13314)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10186)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10493)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10944)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9123)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10292)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10251)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9333)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11048)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15065)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11799)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10140)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12669)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10908)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10419)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10780)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10695)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10563)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9996)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9316)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9354)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11366)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9703)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13081)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12628)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9174)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9579)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9611)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9640)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9195)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8998)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10403)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8623)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8308)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15589)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant