Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thong Dong Trước Tám Ngọn Gió Đời

13 Tháng Mười 201706:28(Xem: 8739)
Thong Dong Trước Tám Ngọn Gió Đời

THONG DONG TRƯỚC TÁM NGỌN GIÓ ĐỜI

Thích Nữ Tịnh Quang

Thong Dong Trước Tám Ngọn Gió Đời


Chúng ta thường bị nhiều thứ ràng buộc từ đời sống, chịu sự chi phối không những đối với cảm thụ vật chất mà còn những quan hệ về nhận thức, tư tưởng khởi nguồn tác động từ bên ngoài và cả bên trong chúng ta. Sự va chạm và phát sinh cảm giác khổ/lạc hay những tư duy đối lập không ngoài sự truy cầu hướng ngoại của tâm; khi tâm thụ động đối với ngoại cảnh là lúc tám ngọn gió đời (bát phong) thổi tâm chúng ta lung lay với những: được/mất, nhục/vinh, khen/chê, khổ/vui (lợi/suy, hủy/dự, xưng/cơ, và khổ/lạc) không lúc nào ngơi.

Có ai trong đờikhông vui vì đuợc, đau vì mất. Ước mơ để được một điều gì đó là bản chất của thế nhân; “sống là tranh đấu”, tranh đấu để sinh tồn là một điều tích cực, bên trong ý nghĩa tích cực lại hàm chứa những tiêu cực. Không phải dễ, khi ta tranh đấu cho ta, cho những người thân của ta, rồi mới nghĩ đến những người khác. Ngoài sự sinh tồn như một con người, chúng ta cũng cần có được một điều gì đó như (với) xã hội loài người cũng không phải đơn thuần, hẳn nhiên là những trở ngại, rồi những nỗ lực để vượt qua; trên con đường vượt qua chúng ta phải đối diện với những nỗi đau để ‘được’, và khi được rồi, chúng ta lại phát sinh tâm lý sợ mất, mất cái mà chúng ta đã dày công tạo dựng, hoặc có thể chưa hài lòng với cái mà chúng ta ‘được’, rồi tiếp tục tranh đấu để ‘đươc’ những cái khác như người …Như thế, đời sống đã trở thành những tháng ngày hoài vọng, tranh đấu và lo sợ với hai chữ: được và mất.

Đối với sự vinh/nhục và khen/chê cũng thế, “chết vinh hơn sống nhục” đã trở thành châm ngôn cho những ai được gọi là ‘quân tử’. Tuy nhiên, vinh và nhục cũng có thể đối với bên này mà không đối với bên khác; và chết để được vinh danh lại trở thành một vấn đề sau khi chết (?) Nguyễn Công Trứ có câu: “Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.” Chữ ‘danh’ ở đây, có lẽ nhà thơ muốn nói đến việc ‘làm lợi gì cho đất nước, cho nhân sinh’; có thể, không mang nghĩa là cầu danh hay đánh bóng tên tuổi như những nhà chính trị đã tạo ra những cuộc chiến tranh lịch sử (?). Ngoài nghĩa như trên, vinh/nhục còn mang ý nghĩa về sự thành tựu của một con người trên phương diện xã hội trong những khía cạnh riêng; thành tựu về con đường học vấn, trong kinh doanh làm ăn, trong quan trường chính trị, gặp được một người phối ngẫu có danh vọng v.v… Như thế, sự thành tựu trên khái niệm vinh/nhục hay khen/chê không ngoài nghĩa cầu danh, cầu được tiếng khen, vui với tiếng khen, buồn với nỗi nhục, với những lời chỉ trích, chê bai, hay không được ca ngợi. Và cũng trên phương diện xã hội, khái niệm vinh, nhục, khen, chê vẫn là đạo đức căn bản của thanh danh; chọn cái tốt để lưu danh luôn được cổ xúy.

Ngọn gió vinh/nhục, khen/chê vốn vô hình nhưng công sức của chúng khôn lường đối với tư duy nhận thức chung của con người, chúng theo ta trong suốt cuộc hành trình làm người. Không ai không ưu ái đối với danh-lợi, không ai không đau với những mất mát, tủi nhục…Những cơn gió vinh/nhục/khen/chê cứ thổi lui thổi tới trong thân phận chúng ta như làn gió bốn mùa thay nhau. Chúng ta thường ao ức ở đỉnh cao của vinh quang như người khác và quên rằng tiến trình mà nó đi qua và sẽ tới, Charles Spurgeon nói: “Đừng tưởng rằng đường đến Thiên đàng là lên đỉnh vinh quang, nó thổi bạn xuống thung lũng của sự ê chề.” (“do not dream that the path to heaven is up the hill of honor, it winds down into the valley of humiliation.’) Trên/dưới, vinh/nhục, khen/chê, sướng/khổ là những cặp phạm trù mâu thuẫn cùng đứng với nhau trong thì hiện tại, nhưng tri tưởng khiến ta nghĩ chúng có sự khoảng cách, ngỡ rằng ta đạt được một cái gì đó, hay ta mất một điều gì đó. Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói rằng: “Người ham muốn danh tiếng như đốt hương, khi người ta ngửi được mùi thơm thì cây hương đã tàn rồi.” Như thế, bản chất của danh tiếng hay danh lợi vốn chóng vánh, vô thường, tốt xấu đều chóng vánh vô thường; tuy nhiên, trên mặt hiện tượng chúng vẫn song song tồn tạivận hành trong thế sáng/tối. Vui và khổ cũng bất chợt, chúng đi từ bên ngoài mà chúng ta ngỡ bên trong. Chỉ là những làn gió, “phướng chẳng động mà tâm động”; sự điên rồ của ý thức là chấp ngoại tại như bản ngã thực hữu, và ‘khổ’ vô hình dung xuất hiện.

Trong kinh Lokavipatti Sutta (Kinh Những Bất Thành của Thế Gian), Đức Phật nói về tám Pháp thế gian trong thế giới con người;  một người thực sự có năng lực tu tập, có trí tuệ quán sát sẽ nhận ra được tám pháp kia là tụ tán và thường, và nhân đó không khởi tâm yêu và ghét chúng:

“Đuợc,mất và nhục, vinh

Chê,khen và vui, khổ

Trong thế giới loài người

Là những pháp tùy thuộc

Sinh diệtvô thường

Chúng không ngừng thay đổi.

Biết thế, người trí tuệ

Chánh niệm, quán sát chúng

Là duyên hợp đổi thay

Pháp ưu ái, không động

Không ưu ái, chẳng sầu.

Với thuận cảnh, nghịch cảnh

Đã tiêu mất, không còn

Tuệ giác không trần cấu

Tâm không còn phiền não

Vị ấy hiểu biết đúng

Đã đạt đến siêu việt

Bước tới được Bờ Kia.” (TNTQ dịch Việt)*

Như thế, Trí tuệĐức Phật muốn đề cập đến là sự hiểu biết đúng, đồng nghĩa với tâm không còn bị chi phối bởi trần cấu, phiền não, hay còn bị khuynh đảo bởi tám ngọn gió đời. Người không còn tùy thuộc bởi ‘được, mất, vinh, nhục,khen, chê’ là người không còn vui buồn theo thế gian. Trong cuộc sống có những điều như  ý khiến cho chúng ta vui, những điều bất như ý khiến chúng ta đau buồn;  đối với tài sản, sự nghiệp, gia đình, thanh danh…một đời chúng ta có được, và ngỡ rằng đó phúc báo của ta; nếu chúng thực sự là phúc, là của ta tại sao chúng ta không hưởng thụ mãi được (?), chúng ta có vui tiếp tục khi phải lìa khỏi chúng lúc chúng ta đau yếu, khi cô đơn trên giường bệnh (?). Sự hỉ hả về ‘được’ luôn hàm chứa những niềm khắc khoải về ‘mất’. Bạn đến gần, bạn trong tay tôi rồi đấy, ai có biết rằng bạn sẽ không thay đổi, khi tôi sẽ không phải là tôi bây giờ. 

Nhận thức thực tính hai mặt của một vấn đề, người tu tập sẽ không bị động trước tám ngọn gió mỉa mai của thế gian, ngọn gió thổi rát lòng người và cuối cùng ai cũng đau vì chúng. Khi quán chiếu thâm sâu, chúng ta sẽ đạt được cái nhìn siêu việt, không còn bị chúng thổi tới tấp vào tâm, và khi tâm không còn rung động vì chúng, thực sự chúng ta mới bước tới được Bờ Kia, bờ Niết bàn an tĩnh.                                                                                                                                                                                         Thích nữ Tịnh Quang

 

----------------------------

*Bản dịch Anh ngữ của Ngài Thanissaro Bhikkhu

The Failings of the World

“ Gain/loss,

 status/disgrace,

 censure/praise,

 pleasure/pain:

these conditions among human beings

are  inconstant, impermanent, subject to change.

Knowing this, the wise person, mindful,

ponders these changing conditions.

Desirable things don't charm the mind,

undesirable ones bring no resistance.

His welcoming

& rebelling  are scattered, gone to their end, do not exist.

Knowing the dustless, sorrowless state,

he  discerns rightly,

 has gone, beyond becoming,

 to the Further Shore.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 108)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 169)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 188)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 171)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 265)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 294)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 451)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 320)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 327)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 398)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 364)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 352)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 323)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 372)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 369)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 296)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 241)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 288)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 309)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 397)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 459)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 466)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 478)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 441)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 459)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 718)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 684)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 963)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 541)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 773)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 593)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 592)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 471)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 583)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 559)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 736)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 526)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 911)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 655)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 653)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1087)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 749)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 646)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1006)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 610)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 730)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 713)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 686)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 708)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 701)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant