Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Xả

Wednesday, October 18, 201705:20(View: 9187)
Tâm Xả

TÂM XẢ

Tâm Minh


Tâm Xả


Trong Phật giáo, từ  ngữ “ xả bỏ hay buông bỏ” được thường xuyên nhắc đi nhắc lại trong nhiều bài thuyết pháp. Tâm xả là một trong 4 tâm vô lượng của chư Phật và Bồ tát, gọi là Tứ vô lượng tâm (Từ Bi Hỉ Xả). Trong Thiền, tâm xả là bước cuối cùng để hành giả hội nhập vào thực tại Tánh Không hay Phật Tánh.

Bài viết nầy sẽ bàn về tâm xả qua 2 lối nhìn: lối nhìn vĩ mô ( qua một quá trình dài) và lối nhìn vi mô ( từng thời điểm hay từng sát na của tâm thức) .

1)    Tâm xả theo lối nhìn vĩ mô:

 Người có nhiều chánh kiếnhành thiện nghiệp, đem lòng từ ái ra giúp đỡ và lòng bi mẫn cảm thông, hoan hỉ hành động vì tha nhân, là được 3 điều tốt Từ, Bi, và Hỉ. Nhưng nếu dừng lại ở đây với tâm không xả, cứ ôm ấp thành quả ấy như một công trạng, một đức hạnh, thì hậu quả là “cái tôi” phồng to ra, tánh kiêu mạn phát triển, xem thường mọi người. Đó là Từ Bi Hỷ Xả diễn ra theo thứ tự chiều thuận. Tại sao có thể diễn ra được như vậy ? – Đó là vì họ có lòng thương người.

 Nhưng đối với những người đầy tà kiếnnặng nghiệp ( tà nghiệp, ác nghiệp), sẽ không có việc ấy xảy ra, vì những người nầy không hề thương người, vốn chỉ biết thương bản thân mình và những người thân của mình (ngã sở). Họ thường xem người khác như kẻ thù, nếu không thì là những con bò sữa để vắt kiệt, hoặc những con dê tế thần. Vấn đề được đặt ra là : làm thế nào để họ có thể tự cải thiện được tà nghiệp ? Và bây giờ, chúng ta hãy thử đem tâm xả ra xem xét ở đây.

 Có lẽ là phải đi theo tiến trình đảo ngược “ Xả, Hỉ, Bi, Từ “, vì không có tình thương thì làm sao bắt đầu bằng từ bi được ? Trước nhất là phải “xả “ cái đã, nhưng xả là xả cái gì ? -  Đó là xả bỏ những tà kiến, chẳng hạn như:

-        Tôi phải làm giàu bằng mọi cách, mặc kệ cho ai ra sao cũng được.

-        Tôi là tài giỏi số một, không ai bằng. Người nào cãi tôi chỉ đáng chết.

-        Tôi chỉ che chở giúp đỡ những người thân và bạn bè của tôi mà thôi, còn những người khác thì nếu không trục lợi được họ thì tôi cũng bỏ mặc kệ họ.

-        Đời là một cuộc chạy đua, ai giỏi thì thắng lợi, ai dở thì thua thiệt ráng chịu.

-        Những người giàu có hoặc trí thức phải bị giết chết hết hoặc trừ khử hết, thì mình mới sống tốt được.

-        Nhà cửa của tôi, tiền bạc tài sản của tôi là thật có. Địa vị của tôi là thật có.

-        Con cái của tôi, vợ hay chồng tôi là thuộc về tôi

-        Sống là phải biết hưởng thụ. Tu hànhngu si, dại dột

-        Tôi còn sống lâu lắm.v.v….

Thật là muôn vàn khó khăn để những tà kiến tương tự như thế có thể bị xóa bỏ trong tâm thức họ. Có lẽ là phải trải qua vô lượng kiếp, trừ phi may ra họ gặp được duyên lành tiếp cận với Phật pháp, quyết tâm học hỏi trau dồi hiểu biết và tu sửa tâm tánh. Nhưng làm sao họ có thể tiếp cận được với Phật pháp một khi họ không thích, không muốn, hoặc cho đó là ngu si nữa ?  Cái giá của họ là phải trải qua nhiều đau khổ cùng cực, may ra mới chịu nhìn lại mà cầu tìm, và sự  khả dĩ nầy cũng không có nhiều. Khoảng cách từ họ đến với giáo pháp là quá xa…, xa hơn cả từ chân trời phía đông đến chân trời phía tây ( Xem Đại luận về Giai trình của đạo giác ngộ Quyển 1 của Đại sư Tây Tạng Tông Cáp Ba). Kết quả là một thế giới hỗn loạn đầy giành giựt, dối trá, giết chóc, và rồi dần dần đi đến hủy diệt như ngày nay.

Nước Nhật là một quốc gia lấy Phật giáo làm quốc giáo . Căn bản giáo dục mầm non của họ là dạy tánh không bon chen tranh giành: từ lớp 1 tới lớp 3 không có bất kỳ một kỳ thi nào, và mục đích giáo dục tiểu học là khai tâm nhiều hơn là khai trí: từ lớp 1 tới  lớp 6 luôn có môn học “nguyên tắc xử thế “ như  một môn đạo đức học thực tiễn. Kết quả tốt cho xã hội ra sao là điều rõ ràng như mọi người đều thấy, khó có quốc gia nào khác sánh kịp: tinh thần kỷ luật, tính nhân bản, cách cư xử tốt giữa con người với nhau.  Nước Bhutan cũng là một quốc gia Phật GiáoQuốc Vương xứ nầy đang chủ trương trồng rừng thật nhiều với mục đích làm sạch bầu khí quyển cho hành tinh của chúng ta.  Thật là một việc đáng ngưỡng mộ.

Trở lại vấn đề xả bỏ tà kiến. Trải qua bao đau khổ, hoặc bị trừng phạt, rồi chiêm nghiệm lại cuộc đờitư duy đúng, một số ít người có thể có được chánh kiến, buông bỏ được tà kiến (Xả), trở nên vui vẻ ( Hỉ), cảm thông ( Bi) và thương người (Từ). Đây là tiến trình đảo ngược Xả, Hỉ, Bi, Từ , khả dĩ của họ khi trở về với thiện đạo. Điều quan trọng là phải tư duy đúng ( chỉ có được ở người có chút lương tri).  Từ tư duy đúng( Chánh Tư Duy) phát sinh ra cái nhìn đúng ( Chánh kiến). Có cái nhìn đúng, cái thấy đúng thì mới có thể buông xả được. Thế nhưng, không phải chỉ có những người ác, người mang tà nghiệp, người nặng nghiệp quay về  với thiện đạo bằng ngõ “ Xả “, mà hầu hết chúng ta, là những người phàm phu nói chung, và những người nghiệp nhẹ, cũng phải bước đi trên con đường thiện đạo bằng ngõ “xả “ nầy, bởi vì  Hỉ, Bi,Từ ( vui vẻ, cảm thông, yêu thương) không thể có được ở một người cố chấp. Lý do là : chúng ta thường có nhiều tà kiến hơn là chánh kiến. Trong lúc chưa huân tập đủ chánh kiến, chúng ta phải đi theo lộ trình Xả Hỉ Bi Từ. Khi có đầy đủ chánh kiến rồi, chúng ta mới có thể đi theo chiều thuận Từ Bi Hỷ Xả của hàng Bồ Tát được.

Chánh kiến nói trên là gì ? Ở đây có nghĩa là chánh kiến tương đối, qui uớc, về một đối tượng nào đó-  là cái nhìn nào, cái thấy nào mà xuyên quachúng ta có thể đi đến được bờ giác ngộ giải thoát . Có bao nhiêu đối tượng để nhìn thấy thì có bấy nhiêu chánh kiến hoặc tà kiến. Huân tập chánh kiến là gặt hái được nhiều chánh kiến hơn và bỏ bớt dần những tà kiến. Cách hay nhất là phải có tâm cầu học và nghe giảng pháp thật nhiều. Khi huân tập đầy đủ chánh kiến thì tình trạng nầy được gọi là viên mãn chánh kiến. Người nầy, tuy chưa giác ngộ nhưng có thể tu tập theo tiến trình chiều thuận Từ Bi Hỉ Xả. Theo tôi, như đã trình bày trong bài viết trước ( số Phật Đản 2016), chánh kiến lớn lao và cơ bản trong cuộc sống là :  Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ. ( Tôi gọi người không có chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy là “người đầy tà kiến”, để dễ diễn ý ngắn gọn trong những bài viết, không có ý chỉ trích).

Đó là nói về “xả” theo quan điểm vĩ mô, tức là nhìn nó diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó của kiếp người.

2)     Tâm xả theo lối nhìn vi mô:

 Tiếp theo đây, chúng ta thử nhìn tâm xả theo cái nhìn vi mô, tức là nhìn tại một thời điểm nào đó,  nhìn nó tại từng sát na. Điều nầy liên quan đến Thiền: Thiền địnhThiền quán, tỉ dụ như: tư tưởng thứ nhất diệt, rồi tư tưởng thứ hai sanh khởi , v.v. , và không phải chỉ có trong Thiền, nó cũng có thể hiện diện ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đây là đề tài sở trường của môn  Duy Thức Học Phật giáo, thiết nghĩ điều nầy dành riêng cho những ai chuyên nghiên cứu về môn học phân tích chi ly nầy, ở đây chúng ta chỉ bàn sơ qua về cách nhận dạng tâm xả mà thôi. Vấn đề tìm hiểu là : khi nào tâm xả khả dĩ xuất hiện được ? Hoặc: tâm xả nào là xả thật sự ? Hay là: kiểu nầy có phải là xả hay chưa ?

Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Tôi hiểu đời là vô thường, không có gì tồn tại với thời gian. Thế mà tôi vẫn, bằng mọi giá, xây cất nhà cao cửa rộng đồ sộ y như là tôi sống đời cả ngàn năm. Đó là tôi không có chánh kiến về lẽ vô thường, đó là một cái thấy sai ( tà kiến). Hiểu là một chuyện, nhưng thấy là một chuyện khác ( nhìn đời qua một cặp kính màu hồng, chẳng hạn). Giữa hiểu và thấy là 1 khoảng cách rất xa, xa hơn từ chân trời phía đông qua chân trời phía tây. Thí dụ : tôi hiểu người ấy là vợ của bạn tôi, không nên yêu và cũng không thể yêu được, nhưng mỗi khi gặp, tôi thấy như thể muốn ôm người ấy vào lòng ! Hoặc là: tôi hiểu sâu Phật pháp và hiểu rất nhiều kinh điển, nhưng tôi không muốn tu hành chút nào, tôi xem nó như một mớ kiến thức để trang điểm cho bản thân mình mà thôi. Khá hơn một mức là: hiểu và thấy đều có, nhưng không chấp nhận: tôi hiểu là như vậy, và cũng thấy như vậy, nhưng điều nầy nhất định là không thể được, nghĩa là tôi không chấp nhận. Giữa thấy và chấp nhận cũng là 1 khoảng cách rất xa. Tôi hiểu rằng anh ấy rất thông minh giỏi giang qua tiếp xúc với anh ta,  và cũng thấy anh ta giỏi thật khi làm việc, vậy mà trong thâm tâm, tôi vẫn muốn nghĩ rằng anh ta do may mắn là con nhà giàu mới trở nên được như vậy, tức là tôi không muốn chấp nhận điều ấy. Hiểu, thấy và chấp nhận, là 3 giai đoạn tiến bộ của tri thức và cũng là lộ trình tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Từ  hiểu đến thấy có thể trải qua một vài trăm kiếp, rồi từ thấy đến chấp nhận cũng vài ba trăm kiếp nữa, vì đối tượng để hiểu, để thấy… thì có rất nhiều, chứ không phải có một vài cái .

Thế nhưng, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã viết rằng:  “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngủ uẩn giai không”…….v.v.. , trong đó vị Bồ Tát nầy soi thấy 5 uẩn đều không: Sắc là không…, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều là không, nghĩa là chứng được thực tại Tánh Không, hòa nhập với Giác Tánh Chân Như  ở sát na đó. Cái thấy nầy là chánh kiến tuyệt đối, chánh kiến tối hậu, hay chánh kiến siêu thế gian, là cái thấy siêu việtnhất nguyên, không còn nằm trong thế nhị nguyên đối đãi của chủ thể ( người thấy) và đối tượng ( vật bị thấy) như cái thấy đề cập ở phần trước. Muốn được như vậy, thấy và chấp nhận phải hiện diện cả hai, đây mới gọi là tâm xả đích thật . Một tâm xả đích thật phải gồm có đủ 3 yếu tố: hiểu, thấy và chấp nhận. Nếu không chấp nhận thì có nghĩa là không muốn thấy, không muốn hiểu, là quay lưng với thực tại với tâm bám nắm hay ghét bỏ. Nếu chỉ có hiểu và thấy thôi, thì cái trí có xả, chứ tâm không chịu xả. Thế là giác ngộ giải thoát hãy còn rất xa. Tại sao hiểu và thấy rồi mà lại không chấp nhận ? Đây là câu hỏi cần được giải thích. Cái thấy này là chánh kiến tương đối về một đối tượng nào đó. Đối với người chưa viên mãn được chánh kiến ( huân tập chánh kiến chưa đầy đủ), chung quanh chánh kiến nầy có một số tà kiến  ở  bình diện ý thức hoặc vô thức ( unconscious) bu quanh ngăn cản ám chướng, khiến khởi lên “tâm không chấp nhận”, và như thế , tâm xả cũng không thể xảy ra. Thử nhìn theo một bình diện khác: theo Kinh Sáu Pháp thuộc Tăng Chi Bộ Kinh ( Chương Sáu Pháp- Hội Chúng), 4 giai đoạn chót của lộ trình giải thoát là: 3.Viên mãn chánh kiến, 4.Viên mãn chánh định, 5. Từ bỏ các kiết sử , 6. Chứng ngộ Niết Bàn, ta thấy trong đó, giai đoạn 5 (từ bỏ các kiết sử) là giai đoạn mà tâm xả sẽ sinh khởi. Từ ngữ  “kiết sử” có nghĩa là những sai khiếnràng buộc vi tế,  thuộc về nghiệp, gồm có 10 cái: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham cõi dục, tham cõi sắc, tham cõi vô sắc, sân hận, si vi tế, kiêu mạn, trạo cử vi tế.  Đó là nhìn theo lối nhìn vĩ mô của những tháng ngày tu tập. Nhưng nhìn theo từng sát na của thời điểm tu tập ( vi mô), một hành giả có thể xả được ở thời điểm nầy mà không xả được một thời điểm khác nào đó, tùy theo đối tượng của thiền ở mỗi lúc.

Trong khi hành thiền về quán tâm, chợt có một ý tưởng nào đó khởi lên. Nếu ta vội xua đuổi nó đi, là ta lọt vào trạng thái ghét bỏ, còn nếu ta chìu theo nó và các liên tưởng tiếp theo xuất hiện làm thành một chuỗi, là ta lọt vào trạng thái bám nắm. Cả hai trường hợp nầy đều không phải là tâm xả. Ngược lại, nếu ta không dung dưỡng nó và cũng không xua đuổi nó, và thấy rằng : “ A  ! bộ mặt thật của mày là như vậy đó ! “ Có thể ví như khi một người mẹ cho đứa con mình một viên kẹo ngọt, đứa con liền sáng mắt vui mừng hớn hở, người mẹ thấy rằng “ A ! bộ mặt thật cùa mày là như vậy đó, thằng dởm ! ”.[ Đây là  cái thấy trung lập đầy thông cảm với đứa con của mình]. Khi thấy được như vậy thì cái thấy nầy là một hiển bày, hiển lộ của Giác Tánh thuần khiết nguyên sơ, của Phật Tánh, của Chân Như. Chữ “mày” trong câu trên là chính cái ý tưởng khởi lên đó, mà qua nó, Giác Tánh Chân Như được lóe lên . Đây là dạng Báo Thân Phật ( với ý nghĩabiểu lộ ra cho thấy ).  Vì tâm không bám nắm hay ghét bỏ, ý  tưởng tự đến rồi tự đi, không một dấu vết nào lưu lại trong tâm. Đây là tâm xả đích thật tại sát na đó. Đại sư Tây Tạng Tsele Natsok Rangdrol trong “ Lời tâm huyết cuối cùng lúc lâm chung” có mô tả trạng thái ấy như sau:

Những gì xuất hiệnhiện hữu, thảy đều là sự hiển lộ diệu kỳ của cảnh giới bao la của Giác Tánh, thì cái thấy tối thượng chính là nhìn ra được tâm mình trong tình trạng tột cùng trần trụi nguyên sơ”.

Hay:

 “ Tất cả những tư tưởng khởi hiện lên như là những biểu lộ của Tánh Biết Tự Nhiên ấy, cho dù là thô lậu hay vi tế, đừng phân tách chúng cũng đừng theo đuổi chúng, đừng lôi kéo chúng trở lại trong [kinh nghiệm] thiền định, cũng đừng ngăn cản chúng”.

Và:

“ Nếu chuỗi tư tưởng tiếp tục hoành hành thì chẳng cần đến pháp đối trị nào khác, bởi vì bất cứ cái gì hiện ra cũng sẽ tự giải phóng chính nó. Bất cứ điều gì hiện đến một cách tự nhiên cũng đều là sự chiếu toả chói ngời của chính tâm con. Hãy nhìn thẳng vào tâm ấy bằng cái nhìn sáng rõ linh động…”

 Đối với phần đông chúng ta, mọi tư tưởng khi khởi lên đều không được tâm ta nhận dạng theo kiểu nầy, nên tất cả đều là vọng tưởng, chúng lôi kéo tâm ta như lôi xềnh xệch một xác chết một cách không thương tiếc, vòng hành samsara bắt đầu hoạt động và phát sinh ra thời gian [ tâm lý]. Khoảng cách giữa hai vọng tưởng, lúc mà tư tưởng nầy vừa diệt mất mà tư tưởng mới chưa khởi lên, là một khoảng vắng lặng của Chân Như, được gọi là Pháp Thân Phật, nhưng ít ai nhận thấy được nó  vì do vô minh che lấp. Từ trong khoảng vắng lặng nầy của Chân Như, một ý tưởng được khởi  lên trong tâm từ để cứu độ tha nhân, thì đó được gọi là Ứng Hóa Thân Phật. Đó là lý thuyết về Tam Thân Phật, gồm: Pháp Thân, Báo ThânỨng Hóa Thân.

Chúng ta có thể thắc mắc rằng: tư tưởng của chúng ta khi nào là vọng tưởng, và khi nào là tư tưởng bất nhị thuộc bồ đề chân như ? - Chúng ta đều biết rằng mọi tư tưởng đều nằm trong thế nhị nguyên đối đãi giữa chủ thể ( người suy nghĩ) và đối tượng (đề tài suy nghĩ). Tùy theo chúng ta  nhìn theo góc độ nào, hoặc từ chỗ đứng nào, thì tư tưởng khởi lên cũng sẽ sai khác như thế ấy. (Thí dụ đi vòng quanh một con voi để chụp chừng vài chục tấm hình với khẩu độ ống kính khác nhau, thì những hình chụp được, không có tấm nào giống tấm nào đã đành, nhưng không có tấm nào đại diện cho toàn thể con voi được). Điều nầy nói lên rằng cái thế nhị nguyên luôn luôn là lệch lạc, bất toàn, là  dạng thể của vọng tưởng. Có tư tưởng nào vượt hơn cái bất toàn ấy không ? - Đó là tư tưởng bất nhị, thuộc về nhất nguyên. Hàm ý trong ví dụ trên là: chúng ta phải thể nhập vào con voi thì mới có thể mường tượng hay cảm nhận được con voi ra sao. Tư tưởng nào thể nhập vào thực tại thì đó là tư tưởng bất nhị, hòa nhập vào Giác Tánh, vào Chân Như.  Người ta có thể nghi ngờ rằng: “Nhị và bất nhị không thể có cùng một lúc, nghĩa là không thể có vừa nhị nguyên vừa bất nhị , và như thế không có tư tưởng nào là bất nhị cả”. Thắc mắc nầy được Đại sư Tenzin Wangyal Rinpoche giải thích như sau trong “ Những Yoga Tây Tạng về giấc mộng và giấc ngủ (The Tibetan Yogas of Dream and Sleep):

 “Lúc bắt đầu, rigpa và tư tưởng có vẻ khác nhau, đến nỗi trong kinh nghiệm về rigpa thì không có tư tưởng, và nếu tư tưởng khởi lên chúng ta bị phóng dật và mất rigpa. Nhưng khi sự vững chắc trong rigpa được phát triển, tư tưởng chỉ đơn giản khởi lên và tan biến mà không có chút che ám nào rigpa ; hành giả an trụ trong tỉnh giác bất nhị. Những tình huống này tương tự với học chơi trống và chuông đồng thời trong thực hành nghi lễ : lúc ban đầu chúng ta chỉ có thể làm được một thứ. Nếu chơi chuông, chúng ta mất nhịp điệu của trống, và ngược lại. Sau khi chúng ta đã vững chắc, chúng ta có thể chơi cả hai cùng một lúc…..”

                          ( Rigpa tiếng Tây Tạng, có nghĩa là Tịnh Quang, Ánh sáng Chân Tâm )

Tóm lại, tâm xả là yếu tố căn bảntối hậu để đưa chúng ta vào chánh kiến tuyệt đối, hội nhập vào Tánh Không, vào Giác Tánh Chân Như trong từng sát na ( vi mô) của lộ trình tiến đến giác ngộ giải thoát ( vĩ mô). Lộ trình nầy là một công trình tu tập lâu dài để có được thói quen xả bỏ từ giây phút nầy qua giây phút khác. Khi thói quen nầy được thuần thục, nhuần nhuyển thì chân trời giải thoát mới từ từ ló dạng.
 

                                                                                                                             Lê Tâm Minh
                                                                                                                               21-7-2016
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 32)
Thu thúc lục căn là làm chủ sáu giác quan khi tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh.
(View: 47)
Bốn câu thi kệ này được trích trong bài « Kinh Hạnh Phúc » mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói cách đây đã hơn hai ngàn năm trăm năm,
(View: 130)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(View: 180)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tại và chúng ta có quyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(View: 170)
Đức Phật xuất hiện và hành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(View: 195)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(View: 204)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(View: 230)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(View: 223)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(View: 264)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(View: 293)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(View: 426)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(View: 809)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(View: 334)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(View: 430)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 299)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(View: 297)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(View: 323)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 348)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(View: 329)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(View: 343)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(View: 350)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệmTu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(View: 353)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(View: 338)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(View: 334)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(View: 342)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(View: 389)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(View: 362)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(View: 558)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(View: 426)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(View: 417)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(View: 416)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(View: 440)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(View: 425)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(View: 476)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(View: 490)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(View: 565)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(View: 469)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(View: 488)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(View: 625)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(View: 574)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(View: 583)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(View: 598)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(View: 574)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(View: 631)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(View: 675)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(View: 691)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(View: 1551)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
(View: 695)
Karma là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “hành động”. Một cách đơn giản để hiểu nghiệp là nhìn nó như những khoảnh khắc nhân quả.
(View: 800)
Từ nghệ thuật, có những nhân vật bước ra đời sống. Từ đời sống, cũng có vài con người đi vào nghệ thuật. Nhưng trở thành hình tượng trung tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant