Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Xả

18 Tháng Mười 201705:20(Xem: 8495)
Tâm Xả

TÂM XẢ

Tâm Minh


Tâm Xả


Trong Phật giáo, từ  ngữ “ xả bỏ hay buông bỏ” được thường xuyên nhắc đi nhắc lại trong nhiều bài thuyết pháp. Tâm xả là một trong 4 tâm vô lượng của chư Phật và Bồ tát, gọi là Tứ vô lượng tâm (Từ Bi Hỉ Xả). Trong Thiền, tâm xả là bước cuối cùng để hành giả hội nhập vào thực tại Tánh Không hay Phật Tánh.

Bài viết nầy sẽ bàn về tâm xả qua 2 lối nhìn: lối nhìn vĩ mô ( qua một quá trình dài) và lối nhìn vi mô ( từng thời điểm hay từng sát na của tâm thức) .

1)    Tâm xả theo lối nhìn vĩ mô:

 Người có nhiều chánh kiếnhành thiện nghiệp, đem lòng từ ái ra giúp đỡ và lòng bi mẫn cảm thông, hoan hỉ hành động vì tha nhân, là được 3 điều tốt Từ, Bi, và Hỉ. Nhưng nếu dừng lại ở đây với tâm không xả, cứ ôm ấp thành quả ấy như một công trạng, một đức hạnh, thì hậu quả là “cái tôi” phồng to ra, tánh kiêu mạn phát triển, xem thường mọi người. Đó là Từ Bi Hỷ Xả diễn ra theo thứ tự chiều thuận. Tại sao có thể diễn ra được như vậy ? – Đó là vì họ có lòng thương người.

 Nhưng đối với những người đầy tà kiếnnặng nghiệp ( tà nghiệp, ác nghiệp), sẽ không có việc ấy xảy ra, vì những người nầy không hề thương người, vốn chỉ biết thương bản thân mình và những người thân của mình (ngã sở). Họ thường xem người khác như kẻ thù, nếu không thì là những con bò sữa để vắt kiệt, hoặc những con dê tế thần. Vấn đề được đặt ra là : làm thế nào để họ có thể tự cải thiện được tà nghiệp ? Và bây giờ, chúng ta hãy thử đem tâm xả ra xem xét ở đây.

 Có lẽ là phải đi theo tiến trình đảo ngược “ Xả, Hỉ, Bi, Từ “, vì không có tình thương thì làm sao bắt đầu bằng từ bi được ? Trước nhất là phải “xả “ cái đã, nhưng xả là xả cái gì ? -  Đó là xả bỏ những tà kiến, chẳng hạn như:

-        Tôi phải làm giàu bằng mọi cách, mặc kệ cho ai ra sao cũng được.

-        Tôi là tài giỏi số một, không ai bằng. Người nào cãi tôi chỉ đáng chết.

-        Tôi chỉ che chở giúp đỡ những người thân và bạn bè của tôi mà thôi, còn những người khác thì nếu không trục lợi được họ thì tôi cũng bỏ mặc kệ họ.

-        Đời là một cuộc chạy đua, ai giỏi thì thắng lợi, ai dở thì thua thiệt ráng chịu.

-        Những người giàu có hoặc trí thức phải bị giết chết hết hoặc trừ khử hết, thì mình mới sống tốt được.

-        Nhà cửa của tôi, tiền bạc tài sản của tôi là thật có. Địa vị của tôi là thật có.

-        Con cái của tôi, vợ hay chồng tôi là thuộc về tôi

-        Sống là phải biết hưởng thụ. Tu hànhngu si, dại dột

-        Tôi còn sống lâu lắm.v.v….

Thật là muôn vàn khó khăn để những tà kiến tương tự như thế có thể bị xóa bỏ trong tâm thức họ. Có lẽ là phải trải qua vô lượng kiếp, trừ phi may ra họ gặp được duyên lành tiếp cận với Phật pháp, quyết tâm học hỏi trau dồi hiểu biết và tu sửa tâm tánh. Nhưng làm sao họ có thể tiếp cận được với Phật pháp một khi họ không thích, không muốn, hoặc cho đó là ngu si nữa ?  Cái giá của họ là phải trải qua nhiều đau khổ cùng cực, may ra mới chịu nhìn lại mà cầu tìm, và sự  khả dĩ nầy cũng không có nhiều. Khoảng cách từ họ đến với giáo pháp là quá xa…, xa hơn cả từ chân trời phía đông đến chân trời phía tây ( Xem Đại luận về Giai trình của đạo giác ngộ Quyển 1 của Đại sư Tây Tạng Tông Cáp Ba). Kết quả là một thế giới hỗn loạn đầy giành giựt, dối trá, giết chóc, và rồi dần dần đi đến hủy diệt như ngày nay.

Nước Nhật là một quốc gia lấy Phật giáo làm quốc giáo . Căn bản giáo dục mầm non của họ là dạy tánh không bon chen tranh giành: từ lớp 1 tới lớp 3 không có bất kỳ một kỳ thi nào, và mục đích giáo dục tiểu học là khai tâm nhiều hơn là khai trí: từ lớp 1 tới  lớp 6 luôn có môn học “nguyên tắc xử thế “ như  một môn đạo đức học thực tiễn. Kết quả tốt cho xã hội ra sao là điều rõ ràng như mọi người đều thấy, khó có quốc gia nào khác sánh kịp: tinh thần kỷ luật, tính nhân bản, cách cư xử tốt giữa con người với nhau.  Nước Bhutan cũng là một quốc gia Phật GiáoQuốc Vương xứ nầy đang chủ trương trồng rừng thật nhiều với mục đích làm sạch bầu khí quyển cho hành tinh của chúng ta.  Thật là một việc đáng ngưỡng mộ.

Trở lại vấn đề xả bỏ tà kiến. Trải qua bao đau khổ, hoặc bị trừng phạt, rồi chiêm nghiệm lại cuộc đờitư duy đúng, một số ít người có thể có được chánh kiến, buông bỏ được tà kiến (Xả), trở nên vui vẻ ( Hỉ), cảm thông ( Bi) và thương người (Từ). Đây là tiến trình đảo ngược Xả, Hỉ, Bi, Từ , khả dĩ của họ khi trở về với thiện đạo. Điều quan trọng là phải tư duy đúng ( chỉ có được ở người có chút lương tri).  Từ tư duy đúng( Chánh Tư Duy) phát sinh ra cái nhìn đúng ( Chánh kiến). Có cái nhìn đúng, cái thấy đúng thì mới có thể buông xả được. Thế nhưng, không phải chỉ có những người ác, người mang tà nghiệp, người nặng nghiệp quay về  với thiện đạo bằng ngõ “ Xả “, mà hầu hết chúng ta, là những người phàm phu nói chung, và những người nghiệp nhẹ, cũng phải bước đi trên con đường thiện đạo bằng ngõ “xả “ nầy, bởi vì  Hỉ, Bi,Từ ( vui vẻ, cảm thông, yêu thương) không thể có được ở một người cố chấp. Lý do là : chúng ta thường có nhiều tà kiến hơn là chánh kiến. Trong lúc chưa huân tập đủ chánh kiến, chúng ta phải đi theo lộ trình Xả Hỉ Bi Từ. Khi có đầy đủ chánh kiến rồi, chúng ta mới có thể đi theo chiều thuận Từ Bi Hỷ Xả của hàng Bồ Tát được.

Chánh kiến nói trên là gì ? Ở đây có nghĩa là chánh kiến tương đối, qui uớc, về một đối tượng nào đó-  là cái nhìn nào, cái thấy nào mà xuyên quachúng ta có thể đi đến được bờ giác ngộ giải thoát . Có bao nhiêu đối tượng để nhìn thấy thì có bấy nhiêu chánh kiến hoặc tà kiến. Huân tập chánh kiến là gặt hái được nhiều chánh kiến hơn và bỏ bớt dần những tà kiến. Cách hay nhất là phải có tâm cầu học và nghe giảng pháp thật nhiều. Khi huân tập đầy đủ chánh kiến thì tình trạng nầy được gọi là viên mãn chánh kiến. Người nầy, tuy chưa giác ngộ nhưng có thể tu tập theo tiến trình chiều thuận Từ Bi Hỉ Xả. Theo tôi, như đã trình bày trong bài viết trước ( số Phật Đản 2016), chánh kiến lớn lao và cơ bản trong cuộc sống là :  Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ. ( Tôi gọi người không có chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy là “người đầy tà kiến”, để dễ diễn ý ngắn gọn trong những bài viết, không có ý chỉ trích).

Đó là nói về “xả” theo quan điểm vĩ mô, tức là nhìn nó diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó của kiếp người.

2)     Tâm xả theo lối nhìn vi mô:

 Tiếp theo đây, chúng ta thử nhìn tâm xả theo cái nhìn vi mô, tức là nhìn tại một thời điểm nào đó,  nhìn nó tại từng sát na. Điều nầy liên quan đến Thiền: Thiền địnhThiền quán, tỉ dụ như: tư tưởng thứ nhất diệt, rồi tư tưởng thứ hai sanh khởi , v.v. , và không phải chỉ có trong Thiền, nó cũng có thể hiện diện ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đây là đề tài sở trường của môn  Duy Thức Học Phật giáo, thiết nghĩ điều nầy dành riêng cho những ai chuyên nghiên cứu về môn học phân tích chi ly nầy, ở đây chúng ta chỉ bàn sơ qua về cách nhận dạng tâm xả mà thôi. Vấn đề tìm hiểu là : khi nào tâm xả khả dĩ xuất hiện được ? Hoặc: tâm xả nào là xả thật sự ? Hay là: kiểu nầy có phải là xả hay chưa ?

Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Tôi hiểu đời là vô thường, không có gì tồn tại với thời gian. Thế mà tôi vẫn, bằng mọi giá, xây cất nhà cao cửa rộng đồ sộ y như là tôi sống đời cả ngàn năm. Đó là tôi không có chánh kiến về lẽ vô thường, đó là một cái thấy sai ( tà kiến). Hiểu là một chuyện, nhưng thấy là một chuyện khác ( nhìn đời qua một cặp kính màu hồng, chẳng hạn). Giữa hiểu và thấy là 1 khoảng cách rất xa, xa hơn từ chân trời phía đông qua chân trời phía tây. Thí dụ : tôi hiểu người ấy là vợ của bạn tôi, không nên yêu và cũng không thể yêu được, nhưng mỗi khi gặp, tôi thấy như thể muốn ôm người ấy vào lòng ! Hoặc là: tôi hiểu sâu Phật pháp và hiểu rất nhiều kinh điển, nhưng tôi không muốn tu hành chút nào, tôi xem nó như một mớ kiến thức để trang điểm cho bản thân mình mà thôi. Khá hơn một mức là: hiểu và thấy đều có, nhưng không chấp nhận: tôi hiểu là như vậy, và cũng thấy như vậy, nhưng điều nầy nhất định là không thể được, nghĩa là tôi không chấp nhận. Giữa thấy và chấp nhận cũng là 1 khoảng cách rất xa. Tôi hiểu rằng anh ấy rất thông minh giỏi giang qua tiếp xúc với anh ta,  và cũng thấy anh ta giỏi thật khi làm việc, vậy mà trong thâm tâm, tôi vẫn muốn nghĩ rằng anh ta do may mắn là con nhà giàu mới trở nên được như vậy, tức là tôi không muốn chấp nhận điều ấy. Hiểu, thấy và chấp nhận, là 3 giai đoạn tiến bộ của tri thức và cũng là lộ trình tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Từ  hiểu đến thấy có thể trải qua một vài trăm kiếp, rồi từ thấy đến chấp nhận cũng vài ba trăm kiếp nữa, vì đối tượng để hiểu, để thấy… thì có rất nhiều, chứ không phải có một vài cái .

Thế nhưng, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã viết rằng:  “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngủ uẩn giai không”…….v.v.. , trong đó vị Bồ Tát nầy soi thấy 5 uẩn đều không: Sắc là không…, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều là không, nghĩa là chứng được thực tại Tánh Không, hòa nhập với Giác Tánh Chân Như  ở sát na đó. Cái thấy nầy là chánh kiến tuyệt đối, chánh kiến tối hậu, hay chánh kiến siêu thế gian, là cái thấy siêu việtnhất nguyên, không còn nằm trong thế nhị nguyên đối đãi của chủ thể ( người thấy) và đối tượng ( vật bị thấy) như cái thấy đề cập ở phần trước. Muốn được như vậy, thấy và chấp nhận phải hiện diện cả hai, đây mới gọi là tâm xả đích thật . Một tâm xả đích thật phải gồm có đủ 3 yếu tố: hiểu, thấy và chấp nhận. Nếu không chấp nhận thì có nghĩa là không muốn thấy, không muốn hiểu, là quay lưng với thực tại với tâm bám nắm hay ghét bỏ. Nếu chỉ có hiểu và thấy thôi, thì cái trí có xả, chứ tâm không chịu xả. Thế là giác ngộ giải thoát hãy còn rất xa. Tại sao hiểu và thấy rồi mà lại không chấp nhận ? Đây là câu hỏi cần được giải thích. Cái thấy này là chánh kiến tương đối về một đối tượng nào đó. Đối với người chưa viên mãn được chánh kiến ( huân tập chánh kiến chưa đầy đủ), chung quanh chánh kiến nầy có một số tà kiến  ở  bình diện ý thức hoặc vô thức ( unconscious) bu quanh ngăn cản ám chướng, khiến khởi lên “tâm không chấp nhận”, và như thế , tâm xả cũng không thể xảy ra. Thử nhìn theo một bình diện khác: theo Kinh Sáu Pháp thuộc Tăng Chi Bộ Kinh ( Chương Sáu Pháp- Hội Chúng), 4 giai đoạn chót của lộ trình giải thoát là: 3.Viên mãn chánh kiến, 4.Viên mãn chánh định, 5. Từ bỏ các kiết sử , 6. Chứng ngộ Niết Bàn, ta thấy trong đó, giai đoạn 5 (từ bỏ các kiết sử) là giai đoạn mà tâm xả sẽ sinh khởi. Từ ngữ  “kiết sử” có nghĩa là những sai khiếnràng buộc vi tế,  thuộc về nghiệp, gồm có 10 cái: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham cõi dục, tham cõi sắc, tham cõi vô sắc, sân hận, si vi tế, kiêu mạn, trạo cử vi tế.  Đó là nhìn theo lối nhìn vĩ mô của những tháng ngày tu tập. Nhưng nhìn theo từng sát na của thời điểm tu tập ( vi mô), một hành giả có thể xả được ở thời điểm nầy mà không xả được một thời điểm khác nào đó, tùy theo đối tượng của thiền ở mỗi lúc.

Trong khi hành thiền về quán tâm, chợt có một ý tưởng nào đó khởi lên. Nếu ta vội xua đuổi nó đi, là ta lọt vào trạng thái ghét bỏ, còn nếu ta chìu theo nó và các liên tưởng tiếp theo xuất hiện làm thành một chuỗi, là ta lọt vào trạng thái bám nắm. Cả hai trường hợp nầy đều không phải là tâm xả. Ngược lại, nếu ta không dung dưỡng nó và cũng không xua đuổi nó, và thấy rằng : “ A  ! bộ mặt thật của mày là như vậy đó ! “ Có thể ví như khi một người mẹ cho đứa con mình một viên kẹo ngọt, đứa con liền sáng mắt vui mừng hớn hở, người mẹ thấy rằng “ A ! bộ mặt thật cùa mày là như vậy đó, thằng dởm ! ”.[ Đây là  cái thấy trung lập đầy thông cảm với đứa con của mình]. Khi thấy được như vậy thì cái thấy nầy là một hiển bày, hiển lộ của Giác Tánh thuần khiết nguyên sơ, của Phật Tánh, của Chân Như. Chữ “mày” trong câu trên là chính cái ý tưởng khởi lên đó, mà qua nó, Giác Tánh Chân Như được lóe lên . Đây là dạng Báo Thân Phật ( với ý nghĩabiểu lộ ra cho thấy ).  Vì tâm không bám nắm hay ghét bỏ, ý  tưởng tự đến rồi tự đi, không một dấu vết nào lưu lại trong tâm. Đây là tâm xả đích thật tại sát na đó. Đại sư Tây Tạng Tsele Natsok Rangdrol trong “ Lời tâm huyết cuối cùng lúc lâm chung” có mô tả trạng thái ấy như sau:

Những gì xuất hiệnhiện hữu, thảy đều là sự hiển lộ diệu kỳ của cảnh giới bao la của Giác Tánh, thì cái thấy tối thượng chính là nhìn ra được tâm mình trong tình trạng tột cùng trần trụi nguyên sơ”.

Hay:

 “ Tất cả những tư tưởng khởi hiện lên như là những biểu lộ của Tánh Biết Tự Nhiên ấy, cho dù là thô lậu hay vi tế, đừng phân tách chúng cũng đừng theo đuổi chúng, đừng lôi kéo chúng trở lại trong [kinh nghiệm] thiền định, cũng đừng ngăn cản chúng”.

Và:

“ Nếu chuỗi tư tưởng tiếp tục hoành hành thì chẳng cần đến pháp đối trị nào khác, bởi vì bất cứ cái gì hiện ra cũng sẽ tự giải phóng chính nó. Bất cứ điều gì hiện đến một cách tự nhiên cũng đều là sự chiếu toả chói ngời của chính tâm con. Hãy nhìn thẳng vào tâm ấy bằng cái nhìn sáng rõ linh động…”

 Đối với phần đông chúng ta, mọi tư tưởng khi khởi lên đều không được tâm ta nhận dạng theo kiểu nầy, nên tất cả đều là vọng tưởng, chúng lôi kéo tâm ta như lôi xềnh xệch một xác chết một cách không thương tiếc, vòng hành samsara bắt đầu hoạt động và phát sinh ra thời gian [ tâm lý]. Khoảng cách giữa hai vọng tưởng, lúc mà tư tưởng nầy vừa diệt mất mà tư tưởng mới chưa khởi lên, là một khoảng vắng lặng của Chân Như, được gọi là Pháp Thân Phật, nhưng ít ai nhận thấy được nó  vì do vô minh che lấp. Từ trong khoảng vắng lặng nầy của Chân Như, một ý tưởng được khởi  lên trong tâm từ để cứu độ tha nhân, thì đó được gọi là Ứng Hóa Thân Phật. Đó là lý thuyết về Tam Thân Phật, gồm: Pháp Thân, Báo ThânỨng Hóa Thân.

Chúng ta có thể thắc mắc rằng: tư tưởng của chúng ta khi nào là vọng tưởng, và khi nào là tư tưởng bất nhị thuộc bồ đề chân như ? - Chúng ta đều biết rằng mọi tư tưởng đều nằm trong thế nhị nguyên đối đãi giữa chủ thể ( người suy nghĩ) và đối tượng (đề tài suy nghĩ). Tùy theo chúng ta  nhìn theo góc độ nào, hoặc từ chỗ đứng nào, thì tư tưởng khởi lên cũng sẽ sai khác như thế ấy. (Thí dụ đi vòng quanh một con voi để chụp chừng vài chục tấm hình với khẩu độ ống kính khác nhau, thì những hình chụp được, không có tấm nào giống tấm nào đã đành, nhưng không có tấm nào đại diện cho toàn thể con voi được). Điều nầy nói lên rằng cái thế nhị nguyên luôn luôn là lệch lạc, bất toàn, là  dạng thể của vọng tưởng. Có tư tưởng nào vượt hơn cái bất toàn ấy không ? - Đó là tư tưởng bất nhị, thuộc về nhất nguyên. Hàm ý trong ví dụ trên là: chúng ta phải thể nhập vào con voi thì mới có thể mường tượng hay cảm nhận được con voi ra sao. Tư tưởng nào thể nhập vào thực tại thì đó là tư tưởng bất nhị, hòa nhập vào Giác Tánh, vào Chân Như.  Người ta có thể nghi ngờ rằng: “Nhị và bất nhị không thể có cùng một lúc, nghĩa là không thể có vừa nhị nguyên vừa bất nhị , và như thế không có tư tưởng nào là bất nhị cả”. Thắc mắc nầy được Đại sư Tenzin Wangyal Rinpoche giải thích như sau trong “ Những Yoga Tây Tạng về giấc mộng và giấc ngủ (The Tibetan Yogas of Dream and Sleep):

 “Lúc bắt đầu, rigpa và tư tưởng có vẻ khác nhau, đến nỗi trong kinh nghiệm về rigpa thì không có tư tưởng, và nếu tư tưởng khởi lên chúng ta bị phóng dật và mất rigpa. Nhưng khi sự vững chắc trong rigpa được phát triển, tư tưởng chỉ đơn giản khởi lên và tan biến mà không có chút che ám nào rigpa ; hành giả an trụ trong tỉnh giác bất nhị. Những tình huống này tương tự với học chơi trống và chuông đồng thời trong thực hành nghi lễ : lúc ban đầu chúng ta chỉ có thể làm được một thứ. Nếu chơi chuông, chúng ta mất nhịp điệu của trống, và ngược lại. Sau khi chúng ta đã vững chắc, chúng ta có thể chơi cả hai cùng một lúc…..”

                          ( Rigpa tiếng Tây Tạng, có nghĩa là Tịnh Quang, Ánh sáng Chân Tâm )

Tóm lại, tâm xả là yếu tố căn bảntối hậu để đưa chúng ta vào chánh kiến tuyệt đối, hội nhập vào Tánh Không, vào Giác Tánh Chân Như trong từng sát na ( vi mô) của lộ trình tiến đến giác ngộ giải thoát ( vĩ mô). Lộ trình nầy là một công trình tu tập lâu dài để có được thói quen xả bỏ từ giây phút nầy qua giây phút khác. Khi thói quen nầy được thuần thục, nhuần nhuyển thì chân trời giải thoát mới từ từ ló dạng.
 

                                                                                                                             Lê Tâm Minh
                                                                                                                               21-7-2016
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2067)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2219)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1712)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2035)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1743)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1732)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1897)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1909)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1560)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1732)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2074)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1824)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2389)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1718)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1721)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1679)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2125)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1951)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2089)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1630)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2250)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1595)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1763)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1827)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1671)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2410)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2122)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2069)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1876)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2226)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1798)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1920)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2157)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1684)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1947)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1944)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2153)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1927)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1768)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1752)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1759)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1872)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2161)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1712)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1684)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2250)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1782)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2353)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant