Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bạch Xuân Phẻ Trên Chiếc Cầu Thế Hệ

11 Tháng Năm 201810:43(Xem: 6329)
Bạch Xuân Phẻ Trên Chiếc Cầu Thế Hệ
BẠCH XUÂN PHẺ TRÊN CHIẾC CẦU THẾ HỆ
TNH-TKD-DQS
Cư sỹ Bạch Xuân Phẻ, Nhà văn Trần Kiêm Đoàn, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Sư Ông Thích Nhất Hạnh, và cư sỹ Doãn Quốc Hưng. Tu Viên Lộc Uyển, 2011.
Đó là chiếc cầu bắc ngang hai bờ: Bờ dĩ vãng là thế hệ đàn anh và bờ tương lai là thế hệ đàn em. Sự "xung đột thế hệ" (generational gap) đã xảy ra từ cổ chí kim, khi hai thế hệ già và trẻ không cùng chung quan điểm với nhau về cuộc sống, về giá trị đạo đức, về lãnh đạo và chính trị. Sự xung đột thế hệ thiếu chiếc cầu hóa giải sẽ tạo thành một sự "ly dị" về tình cảm và nếp sống của hai thế hệ già, trẻ trong bất cứ cộng đồng dân tộc nào. Đặc biệtcộng đồng di dân ra nước ngoài như Việt Nam.
Người châu Á mà tiêu biểu nhất là người Việt Nam thường lấy đạo "tu thân" ra để hóa giải sự xung đột thế hệ.
Tu thân là phải làm gì và tu như thế nào?
Trong quan niệm Tu Thân theo truyền thống của người xưa, có 3 con đường "tu" gọi là Tam Lập: Lập đức, lập công và lập ngôn. Nhưng lập ngôn thường được coi trọng hơn cả, nhất là đối với giới trí thức, kẻ sĩ lấy tinh thần bút nghiên, sáng tạo văn chương nghệ thuật làm trọng thì con đường lập ngôn là vượt trội hơn tất cả. Những tác phẩm văn học nghệ thuật là giá trị tinh thần để đời cho các thế hệ con cháu mai sau. Thiếu đức thân chịu, thiếu công gia đình chịu; nhưng thiếu ngôn thì cả xã hội chịu từ thế hệ này đến thế hệ khác. Có những tác phẩm triết học, chính trị, giáo dục, xã hội đã làm thay đổi bộ mặt xã hội.
Lịch sử văn học và sách báo Việt Nam đã ghi dấu những tác phẩm văn chương, nghệ thuật trong quá khứ thường do những bậc túc Nho trước tác. Và văn học sử cận đại cũng cho thấy rằng, giới sáng tạo văn chương phần đông nằm trong giới bút nghiên, trí thức đã tiếp cận và trải nghiệm nhiều với cuộc sống. Vì vậy giới trẻ có rất ít khuôn mặt viết sách, xuất bản tác phẩm vào tuổi thanh thiếu niên. Ở quê nhà đất nước Việt Nam đã vậy, tại các nước Âu Mỹ lại càng hiếm hơn hiện tượng thế hệ trẻ đang trong cơn lốc "hội nhập" Tây hóa, Mỹ hóa. Sau năm năm, có nhiều đứa trẻ nói tiếng Anh như Mỹ bản xứ và quên dần tiếng Việt Nam "ngày xưa quê mẹ"! 

Trong 36 năm sống tại Mỹ, tôi chỉ gặp 3 trường hợp người tuổi trẻ Việt Nam giữa độ tuổi thanh niên mà vẫn sống nhiệt tình trong những sinh hoạt văn học nghệ thuật bằng tiếng Việt thuần túy: Nguyễn Việt Quý viết và xuất bản cuốn bút ký Ngày Xưa Quê Mẹ khi đang còn là sinh viên mới của đại học Berkeley thời thập niên 1980. Người thứ hai là Phạm Vũ Anh Thư, ra tác phẩm thơ khi đang còn là sinh viên của Delta College thời thập niên 1990. Và, người thứ ba là Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ hôm nay.

Tâm tri kiến, lòng nhân nghĩa và ý hướng hành thiện của Bạch Xuân Phẻ thể hiện qua tác phẩm đã là những dấu chỉ để nhận diện Anh như một thiện tri thức Phật giáo, một nhà giáo dục có tâm huyết và có lý tuởng nhân bản và khai phóng. Nhưng con đường anh đi xa tới đâu thì hoàn toàn tùy thuộc vào "nghề mọn riêng tay" của anh và thiện duyên chờ đón.

Đối với cá nhân người viết những dòng nầy, viết để giới thiệu về một Bạch Xuân Phẻ đã khó; viết về một Tâm Thường Định lại càng khó hơn. Khái niệm "khó - dễ" ở đây không nằm trong phạm trù ngôn ngữ hay tư tưởng mà nằm trong sự lý đời thường. Trong nếp cũ của một đời thường thì một người phân hai đã có nhiều ngõ ngách; huống hồ người khoác nhiều chiếc áo choàng và đứng nhiều vị thế như Bạch Xuân Phẻ là: Cư sĩ, Tiến sĩ, Thi sĩ, Văn sĩ, Giáo sư, Huynh trưởng GĐPT... thì những khúc quanh và những ngã rẽ trong tư tưởng và giữa cuộc đời càng phong phú biết chừng nào

Bạch cư sĩ và Bạch thi sĩ làm thơ rất sớm, từ tuổi hoa niên theo gia đình định cư ở Mỹ trong quá trình vừa trau giồi tiếng Việt, vừa hội nhập với môi trường tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức. Bạch Xuân Phẻ còn là tác giả của những bài thơ tiếng Anh đầy cảm xúc trong sáng. Anh cũng là dịch giả Anh - Việt, Việt - Anh những tác phẩm của mình. 

Và, Bạch văn sĩ cũng đã viết và xuất bản những tập truyện ngắn và bút ký đầu tiên khi còn là sinh viên mới bước chân vào ngưỡng cửa đại học Hoa Kỳ. Trong sinh hoạt giáo dục, Bạch Xuân Phẻ là một thầy giáo trung học chuyên ngành khoa học và đồng thời cũng là giáo sư thỉnh giảng của Hiệp Hội Giáo Chức Bang California về các đề tài tâm linh, tôn giáo mà đậm nét là về lý thuyếtthực hành Chánh Niệm (mindfulness) theo tinh thần Phật giáo. Đặc biệt nhất, Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ là một Phật tử thuần thành. Anh góp mặt thường xuyên trên các diễn đàn truyền thông, những sinh hoạt bảo tồn và phát huy tinh thần hành trì Phật giáo tại Hải ngoại. Anh từng trình bày tham luận trước Đại hội Phật giáo Thế giới VESAK của Liên Hợp Quốc tại Thái Lan và trường Đại học Gautama Buddha ở Ấn Độ.

Điều đáng quan tâm trước nhất khi nói về Tâm Thường Định BXP là hiểu và thực hành pháp hạnh Thân giáo trong quan hệ tôn giáo cũng như ngoài cuộc đời. Nghĩa là lấy chính hành trạng của bản thân mình làm pháp khítài liệu sống thực trong quan hệ tu dưỡng và ứng xử. Trong sinh hoạt đời thường, Anh đã chinh phục được thiện cảm của các bậc tôn túc lãnh đạo tinh thần cũng như bằng hữu và người thân bằng chính phong cách trí thức mà chơn chất, thông thoáng mà hiếu hạnh, sáng tạo mà không vỡ bờ trong tất cả các sinh hoạt thường ngày của bản thân. Trong hoạt động văn nghệ nói chung và sáng tác nói riêng, Bạch Xuân Phẻ đã tỏ ra rất xông xáo vì tinh thần khai phá không ngừng nghỉ. Từ tác phẩm đầu tay Mẹ, Cảm Xúc và Em xuất bản năm 2004, đến nay vừa gần mười lăm năm qua, Bạch Xuân Phẻ đã cho ra đời hơn 10 đầu sách kể cả thơ, văn, bút ký, tham luận, luận án... Mỗi tác phẩmmột thế giới nhỏ riêng tư, nhưng nhìn chung đều có sự nhất quán là tấm lòng tri ngộtri ân của tác giả đối với đạo, với đời và người thân.

Trong chiều họp mặt hội thảo và ra mắt sách nhân dịp cuối tuần, chiều Ngày Của Mẹ (Mother's Day) 12-5-2018 tại chùa Kim Quang, thành phố Sacramento, California, Bạch Xuân Phẻ sẽ giới thiệu nhiều tác phẩm được bạn đọc ưa chuộng; trong đó có nhiều bài thơ, bài viết được trình bày song ngữ Anh và Việt do chính tác giả sáng tácchuyển ngữ. Ngoài ra những quyến sách tuyển chọn do nhà xuất bản Lotus Media, Inc. và Hương Tích Phật Việt xuất bản cũng sẽ được anh giới thiệu.
Với con đường Lập Ngôn như đã giới thiệu khái quát ở trên, Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ đang để lại cho thế hệ mình và thế hệ đàn em những suy nghĩ, cảm xúcdự phóng về những trải nghiệm và thử thách trong thời đại toàn cầu hóa đang diễn ra càng ngày càng sôi động.

Tiếng nói và nếp nghĩ của Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ và thế hệ của anh vừa ghi dấu nội dung kế thừa của thế hệ đàn anh đang ra đi; đồng thời, cũng khẳng định một thái độcon đường chọn lựa phù hợp với tuổi trẻ, niềm tinhoàn cảnh cuộc sống cụ thể trong một xã hội phương Tây, giữa thời đại mới quanh mình.

Chúc tuổi trẻ lên đường vững tiến và thế hệ bắc cầu như Bạch Xuân Phẻ sẽ giúp hai thế hệ đàn anh và thế hệ đàn em người Việt ở quê người tuy có nếp sống và sự sinh hoạt độc lập, khác biệt nhưng không đoạn tuyệt với quá khứ và tách rời nguồn cội. 

Thực trạng tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại đang ở trên một tiến trình Âu hóa, Mỹ hóa càng ngày càng nhanh. Những trí thức trẻ gốc Việt như Bạch Xuân Phẻ đang làm một chiếc cầu thế hệ tuy không nhiều nhưng cần được phát huy và hỗ trợ mạnh mẽ hơn. 

Con én không làm thành mùa Xuân; nhưng mùa Xuân - tự bản chất - vẫn muôn đời cần cánh én.
                        Sacramento. 8-5-2018
                        Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1050)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(Xem: 1139)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(Xem: 1057)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(Xem: 1181)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(Xem: 1172)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(Xem: 1245)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(Xem: 3281)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
(Xem: 1179)
Karma là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “hành động”. Một cách đơn giản để hiểu nghiệp là nhìn nó như những khoảnh khắc nhân quả.
(Xem: 1257)
Từ nghệ thuật, có những nhân vật bước ra đời sống. Từ đời sống, cũng có vài con người đi vào nghệ thuật. Nhưng trở thành hình tượng trung tâm
(Xem: 1114)
Làm sao có được hòa bình và hạnh phúc trong thế giới đầy biến độngnghi kỵ như hiện nay?
(Xem: 1312)
Cho tới hôm nay, “hạnh đầu đà” không còn là cụm từ xa lạ. Nhắc đến nó ta sẽ nghĩ ngay đến sư Minh Tuệ, mặc dù ông không phải là người thực hành hạnh này đầu tiên và duy nhất.
(Xem: 1288)
Nhân duyên đưa đến lời dạy này của Đức Phật bắt nguồn từ sự cầu thỉnh chân thành của trưởng giả tên là Kiên Cố(Kevadha)
(Xem: 1238)
Thực ra, chúng ta không cần tới “một Phật Giáo” nào khác cho thế gian hay cho xuất thế gian,
(Xem: 1138)
Thực hành Chánh Phápvì lợi ích chúng sinh, muốn chúng sinh được thoát khổ, an vui.
(Xem: 1267)
Ngay cả vũ trụ cũng không thoát được luật nhân quả, luân hồi (tái sinh.)
(Xem: 1221)
Con người hơn loài thú vật nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp con người thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, thậm chí giúp cho ý nghĩ sáng tạo - vì tư duytư duy trên và bằng ngôn ngữ.
(Xem: 1299)
Ngày từng ngày vơi đi như cát biển khô chảy qua kẽ ngón tay Đời từng đời nối tiếp như nước sông chảy ra biển
(Xem: 1577)
Gấn một tháng nay, hiện tượng thầy Minh Tuệ gây xôn xao trên mạng xã hội, trong và ngoài nước;
(Xem: 1963)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ.
(Xem: 2001)
Hình ảnh đôi chân trần, y áo vá, 1 cái nồi cơm điện, ăn ngày một bữa, xin ăn qua ngày, không cầm tiền, không tích trữ thức ăn… Thầy mang lại thiện cảm lớn, xúc động mạnh cho nhiều người.
(Xem: 1101)
Chúng ta, những người học Phật, chẳng thể không có tổ quốc, chẳng thể khônggia đình, và cũng chẳng thể không có “tự thân”.
(Xem: 1379)
Sống ở trên đời, ai trong chúng ta chắc cũng có mang trong lòng bốn chữ “nhớ ơn, đền ơn”.
(Xem: 1325)
Khi tôi mới đi học lớp vỡ lòng về Phật học, tôi còn nhớ như in một trong những vị Thầy đầu tiên của tôi có nói về ước nguyện của Thầy
(Xem: 1352)
Trước đây những người theo Đại thừa thường cho rằng giáo lý Nguyên thủy, là giáo lý Tiểu thừa, không đưa đến quả vị tối hậu thành Phật,
(Xem: 1678)
Chúng ta đều biết, đạo Phậttrung đạo. Đức Phật cũng nhờ tránh xa hai cực đoan dục lạc và khổ hạnhmà thành tựu đạo quả.
(Xem: 1291)
Trên báo chí thường thuật nhiều tai nạn thảm khốc xẩy ra nhưng vẫn có người sống sót hay không hề hấn gì trong khi tất cả những người chung quanh chết hay bị thương nặng..
(Xem: 1390)
Phật giáo đề cao sự tự giác, tự thực hành tu tập để đem lại sự thấy biết chân thật, mở lòng yêu thươngđến khắp muôn loài và an lạc cho tự thân.
(Xem: 1794)
Chúng ta có thể xem xét bản chất của Đức Phật qua hai lăng kính: Đức Phật của lịch sửĐức Phật của đức tin (saddhā).
(Xem: 1512)
Có một người đến vấn hỏi thiền sư, “Để phòng ngừa tai họa, xin thầy từ bi cho biết cái gì đáng sợnhất trên cõi đời này?”
(Xem: 1572)
Người sống trên đời nhờ có ngôn ngữ mà giao tiếp được.
(Xem: 1434)
Đức Phật ngài chỉ gia hộ, chỉ dẫn cho chúng sanh cách sống An và phương pháp Tự An, chứ Ngài không thể ban phát cho chúng sanh sự an lành, hạnh phúc,
(Xem: 1599)
Không làm các điều ác Thực hành các điều thiện
(Xem: 1433)
Thông điệp của Đức Phật bao gồm giáo lý(dhamma) và giới luật (vinaya).
(Xem: 1429)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 1481)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 1525)
Bất cứ chuyến đi nào cũng giữ lại trong tôi nhiều kỷ niệm.
(Xem: 1594)
Bệnh tật và thống khổ không thể tách rời nhau, cho nên gọi là “Bệnh thống” [病痛], “Bệnh khổ” [病苦], “Tật khổ” [疾苦].
(Xem: 1738)
Sống ở đời ai cũng mong muốn gia đạo bình an, sự nghiệp ổn định và phát triển.
(Xem: 2151)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 1680)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 1617)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 1301)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 1699)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lựclo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 1717)
Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 1834)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 1427)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1465)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 1665)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 1382)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 1559)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM