Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

16 Tháng Năm 201806:49(Xem: 5863)
Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

Thích Trung Định

Lời Dạy  Của Đức Phật

Kinh là lời dạy của đức Phật, đó là chân lý sự thật, là những gì màđức Phật chứng ngộkhám phá và tuyên thuyết ra, mang lại sựan lạc giải thoát cho người hành trì. Kinh, theo tiếng Phạn ‘sutra’, Pāli ‘sutta’, Hán dịch là ‘Tu-đa-la,’ có nghĩa là ‘khế kinh’, tức:“Thượng khế chư Phật chi lý, Hạ khế chúng sanh chi cơ.” (Trên thì khế hợp với đạo lý của chư Phật, dưới thì khế hợp với căn cơcủa chúng sanh). Chữ “kinh” gồm có bốn nghĩa là: Quán, Nhiếp, Thường và Pháp. Quán (kết nối): Kinh nối kết những nghĩa lý dođức Phật thuyết giảng lại với nhau-từng chữ từng chữ một nối kếtvới nhau giống như một tràng hoa. Cho nên, “kinh” cũng có nghĩa là “kết thành tràng chuỗi.” Nhiếp (thâu về): “kinh” cũng giống như nam châm, có thể nhiếp trì, thâu nhiếp những chúng sanh cần được giáo hóa. Thường: những đạo lý trong kinh điển thì vĩnh hằng và không bao giờ biến đổi. Pháp: trong quá khứhiện tại, hoặc vị laimọi người đều tu hành theo những đạo lý trong kinh điển.[1]

Kinh có đủ Lục chủng thành tựu, đó là: Tín thành tựuVăn thành tựuThời thành tựuChủ thành tựu, Xứthành tựu, và Chúng thành tựu. Theo các nhà sớ giải, kinh gồm có năm nghĩa: pháp bổn, vi phát hay xuất sanh, tuyền dũng, thằng mặc, kết man, và hiển thịPháp bổn nghĩa là cội nguồn, và cũng là nền tảng của Pháp. Xuất sanh tức tất cả mọi đạo lý đều phát xuất từ kinh điểnHiển thị nghĩa là trình bày và giải thíchcác chân lý để mọi người có thể hiểu rõDũng tuyền nghĩa đen là suối phun, ý nói những dòng suối đạo lýtừ trong kinh không ngừng tuôn trào. Thằng mặc là sợi dây mực, nghĩa là kinh điển có thể giúp chúng taphân biệt chánh với tà, cũng như sợi dây có chấm mực giúp người thợ mộc vẽ đường thẳng được ngay ngắn vậy. Kinh cũng có nghĩa là ‘kinh lộ’ (con đường), con đường dẫn đến giác ngộ thành Phật. Kinh lại cũng giống như một pho tự điển lớn, bất cứ đạo lý nào cũng có thể được tìm thấy ở trong đó.

Nói tóm lại, Kinh là Pháp bảo, là cội nguồn của trí tuệKinh tạng (Sutta pitaka), bao gồm các bài kinh (sutta), là những bài giảng của Đức Phật và các vị Đại đệ tử của Ngài. Lời dạy đó, gồm đủ: khế lý,khế cơ và khế thời.

Luật là quy tắcquy định, kỷ luật - là những gì mà Đức Phật đã thiết lập, chế định, là các tiêu chuẩn đạo đức căn bản trong các hành vi ứng xử đúng để áp dụng thực hành đối với người xuất gia cũng như tại giaLuật Tạng được tạo thành từ các nguyên tắc kỷ luật đặt ra cho việc điều chỉnh các hành vi của các đệ tử của Đức Phật. Nó chứa các quy tắc và quy định về việc quản lý của Giáo hội Tăng già, các quy tắc áp dụng cho các hành vi trong cuộc sống hằng ngày của Tăng. Những quy định về việc tiếp nhận đệ tử gia nhập vào Tăng đoàn; những nghi thức sám hối, giải tội; những quy định về pháp an cư, nhà ở, quần áo, thuốc chữa bệnh, và các thủ tục pháp lý trong trường hợp ly giáo, cũng được bao gồm trong đó. Tất cả những quy định này đều do Đức Phật ban hành trong những dịp khác nhau và kết thành bộ luật tạngđầy đủ.[2]

Kinh và Luật là Pháp bảo vô giá ở thế gian, có công năng dẫn dắt chúng sanh vượt thoát khổ đau, đạt đếnan lạcgiải thoát.

Thực tế, trong giai đoạn ban đầuđức Phật chưa chế giới luật, do đó những quy định hướng dẫn trong đờisống tu tập theo con đường của ngài thường được dạy ở trong kinh. Do đó, lúc này Giáo pháp và Giới luậtcó chức năng tương ứng với nhau. Theo lý thuyết thì kinh và luật có sự riêng biệt rõ ràng, nhưng ở ngườithực hành chúng tạo nên sự hợp nhất trong vấn đề nuôi dưỡng phát triển và đào luyện tâm trítính cáchnhư nhau: “Giáo pháp và giới luật của Đức Phật Gotami có những phẩm chất mà bạn có thể biết. Những phẩm chất này dẫn đến sự an tịnh, không có niềm đam mê, tham đắm; để được giải thoát và không bị trói buộc; để buông bỏ, xả ly mà không chấp thủ; để khiêm tốn và không tự cao tự đại; để thỏa mãn và không để bất mãn; đưa đến sự ẩn dật và không vướng víu; để kích thích năng lượng tinh tấn và không lười biếng; để được trút bỏ gánh nặng và không nặng nề chất chứa. Bạn chắc chắn có thể thực hành. Đây là Giáo Pháp, đây là Giới luật, đó là những hướng dẫn của Đức Phật”.[3]

Khi tiến hành khảo sát về lời dạy của Đức Phật trong Kinh tạng Nikāya và Luật tạngchúng ta thấy một nguyên tắc bất di bất dịch, đó là sự thống nhất trong lời dạy của đức Phật giữa kinh và luật. Trong lời dạy của kinh có chứa yếu tố giới luật và ngược lại. Thậm chí một vài bài kinh Đức Phật chỉ trình bày về các giới điều, nên gọi đó là Giới kinh (sīlasutta). Chúng ta có thể thấy toàn bộ các bài kệ trong Tỳ Ni Nhật DụngThiết Yếu của Luật tiểu đều được trích từ kinh Hoa Nghiêm, hay những bài kinh đầu trong Trường Bộ đề cập chủ yếu về tiểu giới, trung giới và đại giớiTuy nhiên, những lời dạy về giới trong Kinh tạng không cụ thể như ở Luật tạng, nhưng sự hình thành của giới cho hàng cư sĩ tại gia và xuất gia cũng đã được đề cập đầy đủ. Một số bài kinh hàm chứa nội dung của giới luật, được tìm thấy dưới đây.

Trong kinh Ví Dụ Cái Cưa (Kakacūpama), Trung Bộ 1, kinh số 21, Đức Phật nhớ lại những ngày đầu củaTăng đoàn khi Ngài bắt đầu thiết lập giới luật để ngăn chặn những hành vi bất thiện từ các môn đệ. Tại một gợi ý của các đệ tử, Ngài đã đưa ra một vài lời khuyên như sau: “Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, hãy nỗ lực đối với các thiện pháp, như vậy các Ngươi mới thành tựu sự trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh trong Pháp và Luật này”.[4] Vụ việc được nói đến trong kinh Ví Dụ Cái Cưa rõ ràng chỉ ra cách thức mà đức Phật trong giai đoạn ban đầu hướng dẫn chư vị Tỷ kheo thực hành theo lời Phật dạy để hoàn thiện đời sống phạm hạnhĐức Phật dường như lúc đầu đã dựa trên sự chân thành và nghiêm túc của chư vị đệ tử, những lời dạy ấy họ luôn áp dụng thành công trong đời sống tu tập. Do đó, những quy định, điều răn như đã được ghi lại trong kinh là vô cùng đơn giản. Nhưng dần dần số người gia nhập Tăng đoànngày càng lên nhanh chóng, đời sống sinh hoạt của Tăng trở nên phức tạp hơn, do đó từ những lời dạyđơn giản như nêu ở trên không còn phù hợp nữa, mà giờ cần phải có những quy định ràng buộc pháp lý được thiết lập, nhằm tránh những vấn đề xảy ra trong tương lai.

Trong giai đoạn ban đầu thành lập Tăng đoàn, việc thọ giới Tỷ kheo chỉ là sự hợp thức hoá bởi chính Đức Phật. Khi Ngài thấy được người đệ tử ấy đã lãnh hội giáo pháp và phát nguyện xuất gia. Chưa có một giới điều nào, chưa có ý niệm gì về sự ràng buộc của quy chế, những lời dạy trên nhằm hướng dẫn các Tỷ kheo thực hạnh đời sống Phạm hạnh nên gọi là “Giới kinh”. Bởi lẽ Giáo pháp chính là giới. Tính chân lýcủa Giáo pháp cùng với năng lực vĩ đại của Đức Phật ảnh hưởng trực tiếp lên tâm trí của một người đã tạo nên tác dụng của giới là đình chỉ các điều ác, thực hành các việc thiện. Nhưng ở những bản kinh khác,chúng ta thấy bắt đầu có sự khuyến tấn của Đức Phật đến chư vị Tỷ kheo phải tuân thủ Giới luật.

Kinh Ước Nguyện (Ᾱkankheyya sutta), Trung Bộ 1, bản kinh số 6, bắt đầu với lời khuyên của đức Phật đối chư vị Tỷ kheo là phải ghi nhớ và tuân thủ giới luật quy định một cách nghiêm túc: “Các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.[5] Như vậy, lúc này chắc chắn hệ thống giới pháp đã được đức Phật thiết lập. Trong khi thuyết giảng giáo pháp, Ngài cũng nhắc và khuyên chư vị Tỷ kheo tuân thủ theo tinh thần giới luật để thành tựu Phạm hạnh.

Trong kinh Ganakamoggllāna và Kinh Điều Ngự Địa (Dantabhumi sutta), Trung Bộ kinhbản kinh 108 và 125, để đối phó với sự phát triển của đời sống tu viện dưới sự hướng dẫn của đấng Đạo sưnhấn mạnhđến sự phát triển đời sống tâm linh của các Tỷ kheo là một quá trình đào tạo dần dần và đang thực hiệntrong từng giai đoạn kế tiếp. Những lời đầu tiên mà đức Phật đề cập đến với các môn đệ của mình, rằng chư vị hãy nỗ lực hướng đến sự hoàn hảo trong các học giới, sự nghiêm trì tịnh giới và kết quả từ pháphành ấy. “Này Bà-la-môn, Thế Tôn, bậc Tri GiảKiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thi thiết học pháp, đã tuyên bố giới bổn Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) cho các Tỷ-kheo. Trong những ngày Bố-tát (Uposatha) chúng tôi cận trú ở chung một thôn điền, tất cả chúng tôi hội họp với nhau tại một chỗ; sau khitụ họpchúng tôi hỏi những gì đã xảy ra cho mỗi một người. Nếu trong khi hỏi nhau như vậy, có Tỷ-kheophạm tộiphạm giớichúng tôi bảo vị ấy làm đúng Pháp, đúng lời dạy. Thật vậy, không phải các Tôn giả xử sự chúng tôichính pháp xử sự chúng tôi”. [6]

Một điều đáng lưu ý ở đây rằng, giới được tìm thấy trong kinh không mang nặng sắc màu như quy địnhtrong luật tạng. Nó chỉ đơn giản là những khuyến khích, khích lệ động viên chư đệ tử nỗ lực từ bỏ pháp bất thiệnthực hành thiện hạnhkiểm soát hành động, lời nói và ý nghĩa theo đúng lời Phật dạy, nhằm phát triển những đức tính thiện lành của vị Tỷ kheo chân chính.

Kinh Bhaddāli Sutta, Trung Bộ 2, bản kinh số 65, chỉ ra sức mạnh về số lượng và sự phổ biến của các thành viên, hoặc các nhóm Tỷ kheo và sự trưởng thành của các thành viên Tăng đoàn trong một thời gianlâu dài về sau sẽ xảy ra một số những nguyên nhân phát sinh lậu hoặc. Đoạn kinh trích dẫn dưới đây cho thấy càng nhiều giới điều được thiết lập ra khi càng nhiều lậu hoặc nảy sinh trong đời sống Tăng đoàn. Chứ không phải có nhiều giới luật được chế định thì lậu hoặc càng được thuyên giảm, như lời thưa bạch của Bhaddāli: “Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, lúc xưa các học giới tuy ít hơn, nhưng các Tỷ-kheo đã ngộ nhập chánh trí nhiều hơn. Bạch Thế Tôn, lại do nhân gì, do duyên gì, ngày nay các học giới nhiều hơn, nhưng các Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn?”[7]

Đức Phật trả lời sự việc này là do, trên thực tế Tăng đoàn ngày càng phát triển nhanh về số lượng, dẫn đến các pháp hữu lậu cũng bắt đầu phát sinh. Thứ nữa là đời sống đạo đức càng ngày càng suy giảm“Này Bhaddali, khi các loài hữu tình bị thối thất, khi diệu pháp bị diệt mất, thời các học giới có nhiều hơn và các vị Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn. Này Bhaddali, khi nào một số hữu lậu pháp(Asavatthaniya dhamma) chưa hiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư vẫn không chế định mộthọc giới cho các đệ tử. Và này Bhaddali, ở đây, chỉ khi nào một số hữu lậu pháp hiện khởi trong Tăng chúng, chỉ khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy. Này Bhaddali, ở đây, khi nào Tăng chúng chưa lớn mạnh, khi ấy một số hữu lậu pháp chưa hiện khởi trongTăng chúng. Và này Bhaddali, chỉ khi nào Tăng chúng đã được lớn mạnh, thời ở đây một số hữu lậu pháphiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy. Này Bhaddali, ở đây, khi nào Tăng chúng chưa đạt được quyền lợi tối thượng... chưa đạt đượcdanh xưng tối thượng... chưa đạt được đa văn... chưa đạt được địa vị kỳ cựu, khi ấy một số hữu lậu phápchưa hiện khởi trong Tăng chúng. Và này Bhaddali, ở đây, chỉ khi nào Tăng chúng đã đạt được địa vị kỳ cựu, thời ở đây một số hữu lậu pháp hiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy.”[8]

Kinh này cũng cho thấy vai trò và vị trí của Giới luật trong đời sống truyền thống quy củ thiền môn. Trong đó tìm thấy được một hệ thống cơ chế Giới luật mang tính pháp lý cao, nhằm tạo điều kiện áp dụng cho đời sống tu sĩ. Tất cả đều dựa trên tinh thần Giới luật để xử lý các vấn đề trong nội bộ Tăng. Các tội danh khinh trọng được quy định rõ ràng, và cách xử lý cũng được đặt ra. Khi hệ thống Giới luật chưa được đức Phật chính thức chế định, nếu có một ai vi phạm lỗi lầm gì, thì khó mà thẩm định tội danh để truy tố và trừng phạt theo thẩm quyền. Do đó, bản kinh giới thiệu và đánh dấu sự ra đời của hệ thống giới pháp (sikkhāpadaáp dụng vào trong đời sống của Tăng. Khi giới và luật được hoàn thiện, nó trở thànhmột công cụ hữu hiệu cho việc thực hiện kỷ luật nghiêm túc trong cộng đồng tu sĩ. Đây là việc áp dụng giới luật trong tu viện Phật giáo nhằm mục đích duy trì kỷ cương và thúc đẩy sự tiến bộ trong đời sống tâm linh của chúng xuất gia đệ tử Phật.

Trong khoảng 13 năm đầu, đức Phật chưa chế định giới pháp nhưng tăng đoàn sống rất thanh tịnhhòa hợp và có sự tiến bộ trong đời sống tâm linh rõ rệt. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn vô sự tăng. Tại thời điểm đó, Đức Thế Tôn đã đề cập Giới dưới hình thức đơn giản, các hình thức chung nhất, với mục đích đểkiểm soát sáu căn, và ba nghiệp tinh khiết với hình thức của một bài kệ, đó là: “Thiện hộ ư khẩu ngôn, tự tịnh kỳ ý chí, thân mạc tác chư ác, thử tam nghiệp đạo tịnh, năng đắc như thị hành, thị đại thiên nhân đạo”.[9] Hoặc trong các hình thức của chánh ngữchánh nghiệp và chánh mạng của Bát Chánh Đạo. Về sau, khi hệ thống giới luật đã được kiện toàn đầy đủ như được ghi lại trong Luật tạng. Lúc này, giới luật có mộtchức năng đặc thù riêng biệt trong việc hướng dẫn chi tiết và cụ thể với mọi hành động của người xuất giacũng như tại giaTuy nhiên, kinh và luật vẫn luôn soi sángyểm trợ nhau không thể tách rời.

Cũng giống như Kinh khi đức Phật thuyết ra đều có đủ Lục chủng chứng tín, thì Luật tạng cũng vậy, khithiết lập đức Phật cũng dựa trên tinh thần tùy phạm tùy chế, chứ không tùy tiện, áp đặt, nhằm tạo niềm tintuyệt đối của chúng đệ tử đối với Thánh giới uẩn, không chỉ trong hiện tại mà còn trong tương lai. Luật tạngquy định khi luận tội một ai đó thì phải có đầy đủ bằng chứng đó là kiến, văn và nghi, tức là đầy đủ ba yếu tố, thấy, nghe và nghi ngờ. Điều này nói lên tính pháp lý rất cao của Luật tạng Phật giáo, không thể luận tộibừa bãi để rồi dẫn đến những sai lầm và gây bất hòa trong Tăng chúng.

Do đó, giữa kinh và luật luôn có một sự thống nhất tương ứng không thể tách rời nhau. Sự thống nhất giữa kinh và luật được Đức Phật nói rõ trong Kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc Trường Bộ kinhLời Phật dạy bao giờ cũng phải phù hợp với kinh, và tương ứng với luật. “Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói: ‘Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư’. Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: ‘Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm’. Và này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: ‘Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh’. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ trì”.[10]

Tóm lại, một người đi theo sự hướng dẫn từ kinh, hoàn hảo trong việc tuân thủ giới luật sẽ giúp vị ấy đạt được các mục tiêu cao thượng của đời sống phạm hạnh, xứng đáng là đệ tử của Như Lai, trên tinh thầnthượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh.

Ghi chú:

[1] Xem, Danh từ Phật học, http://www.dharmasite.net/bdh30/DanhTuPhatHoc-Kinh.html.

[2] Bimala Churn Law, A History of the Pāli Literature, Delhi: Idica Book, 2000, pp.68-69.

[3] The Buddhist Monastic Code I, The Patimokkha Rules, Translated & Explained by Thanissaro Bhikkhu (Geoffrey DeGraff), The Abbot Metta Forest Monastery P.O. Box 1409, Valley Center, CA 92082 U.S.A, 1994, p. 11.

[4] Majhima Nikāya,The Middle Length Discourses of the Buddha, Boston: Wisdom publication, 2009 (fourth ed), p. 219.

[5] Ibid, p. 115.

[6] Ibid, p. 882.

[7] Ibid, p. 548.

[8] Ibid, p. 548.

[9] N. V. Banerjee (trans), The Dhammapāda, verse 183, p.103

 [10] Dīgha Nikaya, The Long Discourses of the Buddha, Boston: Wisdom Publications, 2012, p. 255.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12021)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10386)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8861)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10343)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10931)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12044)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8704)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9300)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10050)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11327)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9841)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9385)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10099)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10136)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9302)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13318)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10191)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10507)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10951)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9135)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10306)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10253)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9353)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11051)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15077)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11819)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10143)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12678)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10911)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10443)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10783)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10706)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10576)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 10004)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9321)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9355)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11376)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9709)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13091)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12637)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9175)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9582)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9617)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9656)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9198)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 9007)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10407)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8644)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8318)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15606)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant