Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôi Học Phật

01 Tháng Sáu 201805:10(Xem: 7327)
Tôi Học Phật

TÔI HỌC PHẬT 

Bác sĩ
 Đỗ Hồng Ngọc


Thoảng Hương Sen

… Một thời, Đức Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng Simsapà. Ngài lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapà, rồi bảo các Tỳ khưu:
- “Này các Tỳ khưu, cái gì là nhiều hơn, số lá Simsapà mà Ta nắm lấy trong tay, hay số lá trong rừng Simsapà?”.
- “Bạch Thế Tôn, số lá Simsapàmà Ngài nắm lấy trong tay thật là quá ít, còn số lá trong rừng Simsapà thật là quá nhiều”.
- “Này các Tỳ khưu, cũng giống như thế...

Cho nên, với tôi, “lõm bõm” học Phật cũng là quá đủ rồi vậy!

1. La-hầu-la là… con Phật lúc Phật còn là Thái tử. Một người con huyết thống. Trong cái đêm rời bỏ cung điện, “quyết tìm đạo sáng cứu chúng sanh” đó, Thái tử Tất-đạt-đa hẳn đã ít nhiều quyến luyến. Khi Phật thành đạo, có dịp về thăm vua cha thì La-hầu-la đã lên bảy tuổi. Và ngay dịp đó, La-hầu-la cũng xin theo Phật, xuất gia.
Hãy coi Phật đã dạy La-hầu-la những gì… để học lóm cũng hay!
Trước hết, Phật giao La-hầu-la cho… ông “thầy dạy kèm” là Xá-lợi-phất. Sao lại Xá-lợi-phất mà không phải ai khác như Mục-kiền-liên chẳng hạn? Xá-lợi-phất thì mới đúng là một ông giáo, kiến thức uyên bácđệ tửtrí tuệ bậc nhất của Phật mà. Phật giao cậu bé La-hầu-la cho Xá-lợi-phất dạy dỗ là muốn La-hầu-la đi vàocon đường tu tập bằng trí tuệ trước hết. Nếu Mục-kiền-liên mà làm thầy có khi La-hầu-la mê… thần thông mất! Phật không trực tiếp
dạy La-hầu-la vì cha mà dạy con không dễ, nhứt là ông con có máu làm vua!
Và bài học đầu tiên Xá-lợi-phất dạy La-hầu-la là thở. Tức là dạy kỹ năng đầu tiên của thiền định. Bởi đây cũng chính là con đường khai mở trí huệ. Có chánh định rồi mới mong có chánh kiếnchánh tư duy… chớ, phải không? Cuộc sống càng căng thẳng, càng đam mê, càng nhiều  tham sân si mạn nghi tà kiến… thì người ta càng dễ quên thở. Người ta chỉ thoi thóp thở, khò khè thở, hời hợt thở, cà giựt thở, cà hước thở cho qua ngày đoạn tháng! Cho nên phải dạy thở trước hết cho La-hầu-la là đúng. Nhưng thở không chỉ là thở. Thở để thấy một kiếp người. Thở để thấy vô thườngvô ngã. Thở để thấy duyên sinh, thấy thực tướng vô tướng
Rồi khi La-hầu-la lớn dần lên, Phật dạy những bước tiếp theo. Hãy học hạnh của đất. Hãy như đất. Đất ở khắp nơi. Đất trong ta. Đất trong vũ trụ. Không có đất, ta không nên hình nên dạng. Không có đất, nhựanguyên không thành nhựa luyện. Điều quan trọng: đất không hề phân biệt. Ném một thỏi vàng hay một đống rác, đất vẫn “như như bất động”…  

Hãy học hạnh của nước. Hãy như nước. Nước ở khắp nơi. Nước ở trong ta chiếm đến ba phần tư thể trọng. Cũng như biển cả sông ngòi chiếm ba phần tư mặt địa cầu. “Nước trôi ra biển lại tuôn về nguồn” (Tản Đà). Chẳng thêm chẳng bớt…

Hãy học hạnh của gió. Hãy như gió. Gió ở khắp nơi. Gió trong ta. Trong bầu khí quyển. “Gió không có nhà/ Gió đi muôn phương…”. Đâu cũng là nhà của gió. “ Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi...” (TCS).

Hãy học hạnh của lửa. Hãy như lửa. Lửa ở khắp nơi. Lửa trong ta. Lửa trong vũ trụ. Lửa ở mặt trời. Lửa giữa lòng đất. Lửa ở trong cây. Không có lửa sao cọ xát thì cây bốc lửa? Lửa đốt cháy hết tham sân si.Lửa tam muội ngùn ngụt trong chánh định…
Tứ đại “đất, nước, gió, lửa”, chính là những chất liệu, như Nitrogen (đất), Hydrogen (nước), Oxygen (gió), Carbon (lửa) tạo nên protein. Từ đó mà có sắc, thọ, tưởng, hành, thức…

Và Phật đã không quên nhắc đi nhắc lại với La-hầu-la: “không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta”. Giới Định Huệ chính là thuốc đặc trị cho Tham Sân Si.

2.“… 30 năm trước khi chưa tu thấy núi là núi, sông là sông. Sau nhân được thiện tri thức chỉ cho chỗ vào thì thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông. Rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh lại thấy núi là núi, sông là sông…”
Cái thấy của 30 năm trước là cái thấy của nỗi lo âu vì vô thường:

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai…
(Tú Xương)

Cái thấy của 30 năm trước là cái thấy của nỗi sợ hãi vì chấp ngã:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi…
(Vũ Hoàng Chương)

Ta sống trong vô thường vô ngã mỗi phút giây mà chẳng biết. Mỗi ngày Trái đất bay vòng quanh Mặt trời2,5 triệu cây số; mỗi giây hàng trăm triệu tế bào hồng cầu tự hủy đi để hàng trăm triệu tế bào hồng cầu mới sanh ra… Ta vẫn cứ tưởng còn ngồi lại bên cầu để than thở: “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…”.  Cho đến lúc thảng thốt nhận ra: “Con sông là thuyền/ mây xa là buồm/ từng giọt sương thu hết mênh mông…” (TCS). 
Người thiện tri thức đã chỉ cho chỗ vào? Vào đâu? Vào cái thấy “như thực”: thấy mọi thứ và cả cái ta nữa, luôn biến dịch, luôn đổi thay, bởi nó từ duyên mà khởi, từ duyên mà sinh. Ta thì từ đất nước gió lửa. Núi thì từ đá, đá thì từ cát, cát thì từ gió...  Nhìn cho rõ ngọn nguồn. Thấy cái thực tướng vô tướng. Rồi mừng rỡ reo lên: À, thì ra là Không
Núi chẳng phải núi. Sông chẳng phải sông!… Nhưng  chấp Không còn tệ hơn chấp Có

May thay, khi thể nhập vào chốn yên vui tịch tĩnh thì núi vẫn cứ là núi, sông vẫn cứ là sông. Núi là núi mà còn đẹp hơn xưa. Sông là sông mà còn đẹp hơn xưa. Chơn không mà Diệu hữu.

3. Làm sao nghe tiếng vỗ của một bàn tay ư? Một bàn tay làm sao vỗ cho ra tiếng được?
Phật bảo đánh một tiếng chuông. Hỏi có nghe không, Anan? Dạ, có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông.Tiếng chuông dứt, Phật hỏi có nghe không, A-nan? Dạ không. Không nghe gì? Không nghe tiếng chuông. Phật cho đánh lại tiếng chuông lần nữa. Nghe không? Dạ có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông. Phật cười: Tôi hỏi ông có nghe không chớ đâu có hỏi ông có nghe tiếng chuông không?
Giữa hai lần gióng chuông ông vẫn nghe đó chứ, ông nghe sự im lặng, nghe sự “không-có-tiếng” đó chứ. Vậy cái sự “nghe” của ông đâu có mất dù cái tiếng chuông kia khi có khi không.
Tiếng là thanh trần, từ bên ngoài, luôn thay đổi. Còn “nghe” –  “tánh nghe” – là tự bên trong, không hề thay đổi, luôn có đó.

4. “Ngày nào còn một chúng sanh…, thì quyết không thành Phật.
Đó là lời thệ nguyện của một vị Bồ-tát. Mà có lẽ cũng là của tất cả các vị Bồ-tát. Ngày nào còn một chúng sanh… nghĩa là Bồ-tát muốn thành Phật thì phải “độ” cho tất cả các “loài” chúng sanh vào Niết bàn sạch trơn mới xong. Bồ-tát phải giúp cho ‘’vô lượng vô số vô biên chúng sanh được… diệt độmà thiệt ra chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả’’(Kim Cang). Vậy chúng sanh là gì mà ngày nào còn một chúng sanhthì Bồ-tát chưa thể thành Phật? Chúng sanh là mọi người trên hành tinh này ư? Là mọi loài sinh vật, cỏ cây, muôn thú ư? Vậy đưa hết chúng sanh vào Niết bàn thì ta… thành Phật để làm chi? Bởi ước nguyệnthành Phật là để mang lại hạnh phúcan lạcgiải thoát cho mình và cho chúng sanh kia mà! Kim Cang nói rõ: “Chúng sanh không phải là chúng sanh nên gọi là chúng sanh” (chúng sanh tức phi chúng sanh thị danhchúng sanh). Nghe thiệt điếc con ráy! Nhưng điếc con ráy là tại ta hiểu lầm thôi, chớ chúng sanh ở đây chỉ có nghĩa là những gì do nhiều (chúngyếu tố tạo thành (sanh) thì gọi là chúng sanh. “Chúng duyên nhi sanh” thế thôi.

Cũng với 3 nguyên tố C (Carbon), H (hydrogen) và O (Oxygen), với những điều kiện nhiệt độ, áp suất nào đó và với tác dụng của một enzym nào đó thì kết hợp với nhau, khi thì cho ra dấm, khi cho ra đường, ra rượu… Đường, dấm, rượu là những “chúng sanh” do ‘’duyên’’ (điều kiện) sanh đó vậy. Một lời nói xúc phạm của ai đó, lúc đầu lời qua tiếng lại, lát sau động tay động chân, cũng sẽ tạo ra vô lượng vô số vô biên… “chúng sanh” đó thôi! Lòng tham, nỗi giận, sự si mêtà kiếnkiêu căng, ngạo mạn…đều là nhữngchúng sanh dắt díu nhau xuất hiện trong ta.   
Chúng sanh đầy dẫy trong tâm. Nó không từ ngoài vào. Cho nên phải: Thức tự tâm chúng sanh/ Kiến tự tâm Phật tánh (Lục tổ Huệ Năng). 
Và, như thế, Bồ-tát nguyện “ngày nào còn một chúng sanh… quyết không thành Phật” là có lý quá chớ!

5. Một hôm Phật nói ta sắp nhập Niết bàn rồi, ai muốn hỏi gì thì hỏi ngay đi.
Các vị Bồ-tát nhao nhao hỏi:
– Thế Tôn, có pháp môn nào giúp cho mau thành Phật không? (kinh Pháp Hoa)
Ối trời! Thành Phật đã là chuyện hy hữutu hành nhiều đời nhiều kiếp chưa ăn thua gì mà bây giờ còn muốn cho mau thành Phật nữa ư?
Vậy mà, Phật tủm tỉm cười:
– Có đó. Có một pháp môn giúp cho mau thành PhậtPháp môn này gọi là Vô Lượng Nghĩa”!
– Sao gọi là Vô Lượng Nghĩa?

– Vô Lượng Nghĩa này từ một pháp sanh ra, một pháp ấy là “Vô tướng”.
– Sao gọi là Vô tướng?

– Vô tướng đây nghĩa là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng, nên gọi làThật tướng.
Thì ra để thấy được Thật tướng thì phải tu pháp Vô tướng. Vì còn thấy có tướng, còn dính mắc vào tướng, còn loay hoay trong tướng – cái trình hiện, cái biểu kiến bên ngoài – thì không thể thấy Tánh.

6. Phật hỏi Duy-ma-cật: “Như ông muốn thấy Như Lai thì quán Như Lai như thế nào?”. Duy-ma-cật thưa:“Như tự quán cái ‘thật tướng’ của thân, quán Phật cũng như vậy”.
Phật là Như Lai nhưng Như Lai không phải Phật. Phật là Như Lai bởi Phật luôn sống trong Như Lai, sống với Như Lai, nói khác đi, Phật luôn sống trong pháp thân, trong thật tướng.  
Thấy được cái pháp thân của Phật, cái thực tướng của Phật thì mới thấy... Như Lai. Còn nếu chỉ nhìn vào 80 vẻ đẹp hay 32 tướng tốt thì còn lâu mới thấy Như Lai. Dùng âm thanh chũm chọe, ánh sáng chớp lòe... thì chẳng những không thấy Như Lai mà còn bị Phật chê là “hành tà đạo”. Bởi Như Lai không có cái gì để thấy cả!
Phổ Hiền Bồ-tát bảo khi gặp Phật thì phải kính lễ (Lễ kính chư Phật), còn khi gặp Như Lai thì chỉ còn có cách xưng tán (Xưng tán Như Lai!), tức khen ngợi, trầm trồthán phụcgật gùú ớ, bởi vì “nói không được”!
Duy-ma-cật giải thích thêm: Như Lai thì vô danhvô tướng; không sạch, không nhơ; không phải hữu vicũng không phải vô vi...; không định, không loạn; không trí cũng không ngu; không đến không đi; khôngvẩn đục, không phiền não, không tác, không khởi, không sanh, không diệt, không sợ, không lo, không mừng, không chán...; không thể lấy trí để biết; không thể lấy thức để nhận ra; dứt tuyệt tất cả con đườngngôn thuyết; không thể bằng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt...
Do vậy, muốn thấy Như Lai thì phải quán, mà trước hết là quán cái “thực tướng” của chính thân mình.  Cho nên Phật dạy: “Hãy nương tựa chính mình!”.

 

7. Rồi học hạnh Chân thành của Dược Vương, vị Bồ-tát “Nhứt thiết chúng sanh hỷ kiến”, ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng. Dược Vương tự “đốt thân” (Thiền định) để vào Chánh định, đạt “nhân vô ngã”, rồi đốt cả hai cánh tay, giải trừ chấp pháp, đạt ‘’pháp vô ngã’’, từ đó mới ung dung tự tạichân thànhtrung thực...Thân khẩu ý là một. Nụ cười toát ra tự bên trong, không làm bộ làm tịch, vẽ vờitrau chuốt, không mang mặt nạ, không nói một đằng làm một nẻo...

Rồi học hạnh Thấu Cảm của Quán Thế Âm, vị Bồ-tát có khả năng “nghe được tiếng kêu của trần thế!”. Với lòng đại từ đại bi, với vô úy thí, nghìn mắt nghìn tay, nước cam lồ rưới mát cõi nhân sinh đầy thù hận, sợ hãi. Sợ gì? Sợ chết, sợ khổ, sợ nghèo, sợ xấu xí, sợ bệnh hoạn, sợ già nua… Cho nên làm cho hết sợ là đủ để mang lại an lạc, đủ để “cứu vớt chúng sanh” thoát biển trầm luân. Nhưng vì đâu mà sợ? Vì tưởng.Vô thường tưởng là thường. Vô ngã tưởng là ngã…Nuôi mộng muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ...
Quán Thế Âm không đến từ bên ngoài mà đến từ bên trong của người “hành thâm Bát Nhã”.

Rồi học hạnh Thường Bất Khinh, vị Bồ-tát chỉ làm mỗi việc: chắp tay xá lạy mọi người, bất kể là ai và nói với họ rằng: Tôi không dám coi thường ngài. Ngài là một vị Phật tương lai. Nghe ông nói, ai cũng nổi giận. Phật ư? Giỡn chơi sao chớ. Chế giễu hả? Và người ta đánh đuổi ông, nguyền rủa ông, ném đá ông. Mặc kệ, ông vẫn kiên trì, không một chút nao lòng. Nghe một lần hai lần thì khó chịu, nghe trăm lần ngàn lần thì giật mình, ơ hay, cũng dám lắm chớ. Ai cũng có hạt giống Phật mà, chịu khó tưới tẩm có ngày dám mọc lên một cây Bồ đề lắm chớ.
Cho nên Tôn trọng, đức tính thứ nhất để thiết lập truyền thông hiệu quả. Thiếu tôn trọng thì truyền thông lập tức gẫy đổ. 

Chân Thành (Genuine), Thấu Cảm (Empathy), Tôn Trọng (Respect)... là những hạnh cốt lõi của Bồ-tát đó vậy./.

Trích: Thoảng Hương Sen, Đỗ Hồng Ngọc, 2018

Ý kiến bạn đọc
10 Tháng Mười 201921:23
Khách
Cam on BS Do Hong Ngoc, da day cho 1 bai hoc ve Phat phap quy gia
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16689)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24164)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20592)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18838)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21332)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18288)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19853)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14854)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12979)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13969)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13157)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14017)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17639)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15412)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14709)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14460)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17870)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21911)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19465)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20608)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25146)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16881)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14727)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19000)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22013)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20639)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25296)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15774)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15780)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20732)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17019)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18643)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20029)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39320)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31521)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30666)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36031)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23879)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26554)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant