Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Cứ Liệu Về Nguồn Gốc Pāli Trong Kho Tàng Tiếng Việt

31 Tháng Bảy 201807:13(Xem: 6261)
Vài Cứ Liệu Về Nguồn Gốc Pāli Trong Kho Tàng Tiếng Việt

VÀI CỨ LIỆU VỀ NGUỒN GỐC PĀLI
TRONG KHO TÀNG TIẾNG VIỆT
 
Chúc Phú

Vài Cứ Liệu Về Nguồn Gốc Pāli Trong Kho Tàng Tiếng Việt



Tiếng Việt là một thể loại ngôn ngữ được định hình cùng với lịch sử dân tộc Việt Nam. Trong quá trình phát triển, Tiếng Việt đã kế thừa và tiếp nhận nhiều cơ sở ngôn ngữ của các quốc gia có liên hệ về giao thương, tín ngưỡngvăn hóa...

Nói rõ hơn, có nhiều cứ liệu cho thấy trong kho tàng Tiếng Việt nói chung chứa đựng nhiều yếu tố ngôn ngữ đặc thù, do bị ảnh hưởng hoặc vay mượn các thành tố ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Điều này, các nhà nghiên cứu chuyên ngành về ngôn ngữ học đã chứng minh với những bằng chứng khoa học, xác đáng.

Từ những liên hệ mang tính gợi mở đó, chúng tôi rất ngạc nhiên vì trong khi nghiên cứu, đối khảo kinh điển Phật giáo từ Pāli và Hán tạng, đã phát hiện nhiều trường hợp tương đồng giữa ngôn ngữ Pāli và tiếng Việt. Do chưa đủ thẩm quyền về ngành ngôn ngữ học (linguistics), nên chúng tôi chỉ xem khảo cứu này như là một đề xuất mang tính gợi mở, về những tương hợp lạ lùng giữa Tiếng Việt và ngôn ngữ Pāli.

1.  Cơ sở làm tiền đề từ các mối liên hệ giao thương, tín ngưỡng…

Do vị trí địa lý vừa thuận lợi về đường biển và cả đường bộ, nên trong lịch sử ở nhiều thời kỳViệt Nam từng là điểm dừng chân của nhiều đoàn thương buôn trên biển, và là nơi tiếp đón nhiều bậcdanh Tăng thạc đức đến từ các nước Phật giáo phương Nam[1]. Chỉ xét riêng hành trạng của một vài bậc cao tăng đã cho thấy điều đó.

Trước hết, theo Cao Tăng truyện, quyển thứ nhất. Ngài Khương Tăng Hội (康僧會) là dân nước Khang Cư (康居), sau đó vì công việc buôn bán nên cha mẹ ngài chuyển đến sống ở Giao Chỉ (交趾). Khương Tăng Hội trưởng thành ở Giao Chỉ từ bé, vì khi mười tuổi cha mẹ ngài đã qua đời. Sau khi mãn tang song thân, ông xuất giatinh tấn tu học và đã minh giải tam tạngtỏ tường sáu kinh(明解三藏. 博覽六經). Vào niên hiệu Xích Ô (赤烏) năm thứ mười (247) ông đến Kiến Nghiệp và giáo hóa Ngô Tôn Quyền quy y Tam Bảo. Ngài viên tịch vào niên hiệu Thái Khang nguyên niên (太康元年: 280)[2]. Tác phẩm còn lại của Khương Tăng Hội gồm bảy bộ kinh, gồm hai mươi quyển. Trường hợp của ngài Khương Tăng Hội đã góp phần cho thấy, Phật pháp phát triển ở Giao Chỉ rất sớm và từ đó đã truyền sang Đông Ngô[3].

Thứ hai, ngài Đàm-ma-da-sá (曇摩耶舍) có một vị đệ tử tên là Pháp Độ (法度). Sau khi sư phụ Đàm-ma-da-sá trở về cố quốc, ngài Pháp Độ tận hành theo pháp Nam truyền. Cụ thểtôn giả chủ trươngchuyên học tập Tiểu thừa, cấm đọc kinh Phương đẳng[4], chỉ lạy ngài Thích-ca, không lạy mười phương Phật.  (專學小乘禁讀方等. 唯禮釋迦. 無十方佛). Trong số những vị đệ tử theo tuân hànhtheo ngài Pháp Độ có ni cô pháp danh là Phổ Minh (普明尼), vốn là con gái của Thứ sử Giao Châu (交州刺史) tên là Trương Mục (張牧)[5].

Theo Nam Tề Thư (南齊書)[6], quyển thứ 58, Thứ sử Giao Châu Trương Mục (交州刺史張牧) mất vào năm đầu niên hiệu Thái Thủy (泰始), tức năm 465 của triều Lưu Tống Minh Đế (劉宋明帝: 439–472).

Thứ ba, đất Giao Chỉ từng là nơi xuất hiện nhiều bậc cao tăng như Thích Đàm Hoằng (釋曇弘)[7]chuyên tâm trì tụng kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ. Vào niên hiệu Hiếu Kiến (孝建) năm thứ hai (455)  ngài đã tự thiêu ở chùa Tiên Sơn (仙山寺) thuộc quận Giao Chỉ (交趾). Các ngài như Thích Tuệ Thắng (釋慧勝)[8], Thích Đạo Thiền (釋道禪)[9] vốn là người Giao Chỉ  và cùng tu ở chùa Tiên Châu Sơn (仙洲山寺). Đặc biệt, vào thời Nam Tề (南齊:479-502), có Thái Nguyên Vương Diễm (太原王琰)[10], là tác giả của tác phẩm Minh Tường Ký (冥祥記)[11] nổi tiếng còn lưu lại đến ngày nay. Đáng chú ý là khi còn bé (年在幼稚), Vương Diễm từng thọ năm giới với một pháp sư của Giao Chỉ tên là Hiền (於交阯賢法師所受五戒) vào niên hiệu Kiến Nguyên năm đầu (建元初: 479)[12].

Thứ tư, dân tộc Việt vốn dĩ có một nếp sống thuần thiện, ôn hòa, dễ dàng chấp nhận và nâng đỡnhững dân tộc lân bang vì những lý do khác nhau mà cùng chung sống. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quyển bảy, thời vua Trần Hiến Tông (1319-1341) có một xóm người Chiêm Thành gần kinh đô, gọi là thôn Bà-già. Sử ghi:

Thôn này hồi Lý Thánh Tông đánh chiếm Chiêm Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy tiếng Chiêm đặt tên là Đa Gia Ly, sau gọi sai thành “Bà Già”[13].

Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, quyển bảy, Trần Nhật Duật (1255-1330) thường cỡi voi sang chơi với xóm người Chiêm này vì ông giỏi nhiều ngôn ngữ trong đó có tiếng Chiêm.

Có thể nói, ngay từ thời nhà Trần, đã có những dấu ấn của ngôn ngữ Chiêm Thành trong trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt.

Thứ nămthực tế lịch sử ghi nhận rằng, dãi đất khu vực miền Trung đã từng tồn tại nhiều đô thị cổ mà sớm nhất là nhà nước Lâm Ấp được thành lập vào năm 192[14]. Đặc thù của nhà nước này mang ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ và Phật giáo. Nhiều bằng chứng lịch sử hiện còn đãchứng tỏ điều này. Các dấu tích còn lại của vương quốc cổ này như Thành Lồi ở Huế, những di chỉ ở làng Trà Kiệu, Phật viện Đồng Dương ở Quảng Nam, di tích thành Đồ Bàn ở Bình Định.  Khảo cứu lịch sử cho thấy, thành Đồ Bàn đã chấm dứt vai trò lịch sử của mình vào năm 1471[15].

Gần mười ba thế kỷ tồn tại, với ảnh hưởng văn hóa chủ đạo là Ấn giáo và Phật giáo, nước Lâm Ấp, Chiêm Thành hay Chămpa, đã có những đóng góp đáng kể về nhiều lãnh vực cho các thế hệ mai sau của dân tộc Việt Nam. Theo chúng tôi, một trong những đóng góp phi vật thể, chính là những dấu ấn của ngôn ngữ Pāli trong kho tàng Tiếng Việt.

Thứ sáu, dịch giả người Pháp G. Jeanneau, đã dịch nhiều tác phẩm thơ ca nổi tiếng của Việt Nam  như Lục Vân TiênTấm Cám…từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ, đã có những phát biểu quan trọng về cội nguồn của Tiếng Việt. Chúng tôi xin dẫn lại quan điểm của ông trích từ tác phẩm Chữ văn quốc ngữ của Nguyễn Văn Trung:

Janneau, người đầu tiên dịch “Lục Vân Tiên” bản Nôm ra chữ Quốc ngữ cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng của các dân tộc Aryen; tuy Janneau không phủ nhận tiếng Việt liên hệ với chữ nho, nhưng trong hai bài khảo cứu liên tiếp về nguồn gốc tiếng Việt, Janneau có tìm ra những yếu tố chứng minh tiếng Việt bắt nguồn từ những tiếng Aryen[16].

Các nhà ngôn ngữ học đã chứng minh, một trong những ngôn ngữ của các dân tộc Aryan chính là Pāli. Theo giáo sư Hirakawa Akira thì Pāli là một phương ngữ cổ có xuất xứ từ Vidisā hay Bhīlsa thuộc khu vực Tây nam Trung Ấn[17]. Vidisā hiện nay là một thành phố thuộc bang Madhya Pradesh, thuộc Trung Ấn Độ.

Như vậy, vào năm 247, Phật giáo từ Việt Nam đã truyền sang Trung Hoa ở thời Đông Ngô; sự kiệnVương Diễm (王琰) thời Nam Tề thọ ngũ giới vào năm 497 với pháp sư Hiền ở Giao Chỉ; trường hợp con gái của Thứ sử Giao Châu là ni cô Phổ Minh (普明尼), xuất gia và tuân hành theo Phật giáo Nam truyền; đặc biệt, ở triều nhà Trần đã xuất hiện một xóm nhỏ Chiêm Thành cùng sinh sống gần kinh đô… đã cung cấp những bằng chứng xác thực cho thấy, vào khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên, Phật giáo Việt Nam đã có một nền tảng vững chải mà nguồn cội của nó được tiếp nhận từ các nước Phật giáo phương Nam.

Từ những tiền đề như đã nêu, đã tạo nên những ảnh hưởng đa chiều về nhiều lãnh vực văn hóaxã hội và một trong số chúng, chính là những dấu ấn đặc thù về ngôn ngữ Phật giáo Nam truyền mà ở đây là ngôn ngữ Pāli, đã từng bước xuất hiện trong kho tàng dụng ngữ Tiếng Việt.

2. Những từ Tiếng Việt có nguồn cội  hoặc phát âm tương đồng với ngôn ngữ Pāli.

Tiếng nói và chữ viết là hai thành tố quan trọng của ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ Pāli, nói đến cáchphát âm (Pronouncation) chính là đề cập đến phương diện tiếng nói của ngôn ngữ này.

Để bạn đọc tiện theo dõichúng tôi xin được thống nhất cách viết tắt về ba bộ tự điển được sử dụng trong đối khảo như sau:

  1. Từ điển Pāli - English của Pāli Text Society, phiên bản điện tử năm 1999, viết tắt là PTS[18].
  2. Việt Nam Từ điển của Lê Văn Đức, 1970, viết tắt là VNTĐ[19].
  3. Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, 2003, viết tắt là TĐTV[20].

Trong chuyên khảo này, chúng tôi lần lượt giới thiệu một số tương đồng giữa Tiếng Việt và ngôn ngữ Pāli tuân theo thứ tự của bảng chữ cái Tiếng Việt, theo ba bộ tự điển nêu trên và cả số trangliên quan.
1. ÁP: (động từ) làm cho bề mặt của một vật sát bề mặt của một vật khác (TĐTV, tr, 9). Pāli: API:(căn ngữ ap), trên bề mặt của một vật (onto), gần (close by-PTS, p.135).
2. BA LÁP (khẩu ngữ), không đứng đắn, không có nghĩa lý gì (TĐTV, tr. 22). Pāli: PALĀPA (động từ), nói chuyện bá láp, tầm phào, phù phiếm (chaff, as frivolous talk – PTS, p.1003.)
3. BÁT (danh từ), đồ dùng có dạng bán cầu để đựng cơm, canh, nước uống (TĐTV, tr.42). Pāli:PATTA (nam tính và trung tính) cái bát, bình bát của một vị Tỳ-kheo (a bowl, the alms-bowl of a bhikkhu – PTS, p.927).
4. BẮC (động từ) đặt vào vị trí để sử dụngBắc nồi lên bếp[21] (TĐTV, tr.43). Pāli: PACATI (động từ) nấu, đun sôi, nướng (to cook, boil, roast – PTS, p. 871).
5. BỂ (trạng từ) vỡ (TĐTV, tr.57). BHEDA (động từ, căn ngữ bhid) bể, xé nátbất hòa, sự chia rẻ (breaking, rending, breach, disunion – PTS,p. 1154).
6. BỒ: (danh từ) bạn thân (TĐVN, tr,123). Pāli:BHO: (bất biến từ) ngài, bạn thân, bạn, người thương (sir, friend, you, my dear - PTS, p.1155).
7. BÚP: (danh từ) chồi non của cây. Nụ hoa sắp hé nở (TĐTV, tr.92). Pāli: PUPPHA (trung tính, căn ngữ puṣ) một bông hoa (a flower- PTS, p.1063).
8. BỤT (danh từ) Phật, theo cách gọi dân gian, (TĐTV, tr.92). Pāli: BUJJHATI (danh từ, căn ngữbudh), thức tỉnhhiểu biết, nhận hiểu (to be awake, to know, recognise, - PTS,p.1110-1111).
9. CẢM (động từ), làm cho rung động trong lòng khi tiếp xúc với việc gì, có cảm tình và như chớm yêu (nói về quan hệ nam nữ ) (TĐTV, tr.106). Pāli: KĀMETI (động từ, phát xuất từ kāma ), khao khát, thèm khát (to desire, to crave – PTS, p. 487).

10.CẠP (động từ) cắn dần từ ngoài vào, gặm (TĐTV, tr. 115). Pāli: CAPPETI, (căn ngữ cabb =adana = đang ăn), nhai (to chew – PTS, p. 606).

11.CẶP (động từ, khẩu ngữ), đi đôi, quan hệ với nhau thành một đôi. Pāli: KAPPETI (căn ngữkappa), có quan hệ tính giao (to have (sexual) intercourse – PTS, p. 452).

12.CẮT (động từ) làm đứt bằng vật sắc (TĐTV, tr. 120. Pāli: KARATI (động từ, căn ngữ kar), cắt (cut – PTS, p. 467)

13.CHÁI: (danh từ) gian nhỏ lợp một mái tiếp vào đầu hồi, theo lối kiến trúc dân gian (TĐVN, tr,131). nhà phụ, liền vách với nhà chính (VNTĐ, tr.256). Pāli:CHADA: (Danh từ, căn ngữ chad) bất cứ thứ gì che phủ, bảo vệ, hay che chỡ, một miếng che, một mái hiên (anything that covers, protects or hides, viz. a cover, an awning cover - PTS,p. 632)

14.CHẺ: (động từ) tách theo chiều dọc thành từng mảnh, từng thanh (TĐTV, tr.146. Pāli:CHEDA: (Căn ngữ chid), nghĩa là chặt  đứt, phá hủyhao tổn (cutting, destruction, loss - PTS, p.109).

15.CUỖM (động từ, thông tục) chiếm lấy và mang đi mất một cách nhanh chóng (TĐTV, tr, 225). Pāli: CORA (động từ, căn ngữ cur), tên trộm, kẻ cướp (a thief, a robber – PTS, p.629).

16.ĐĨ: (danh từ) người phụ nữ làm nghề mại dâm (hàm ý khinh); (khẩu ngữ) lẵng lơ (TĐTV, tr.313). Pāli: DHI: một thán từ trách móc và ghê tởm:  nhục nhã, tủi thẹn, khốn khổ (an exclanation of reproach & disgust: fie!shame!woe – PTS,p.776).

17.ĐANH ĐÁ (tính từ - người phụ nữ) không chịu nhịn ai, sẵn sàng có những lời nóicử chỉ quá quắt, gây cảm giác khó chịu (TĐTV, tr. 285). Pāli: DANDHA (tính từ) chậm lụt, khó dạy, cứng đầu, ngớ ngẫn, ngu ngốc (slow; slothful, indocile; silly, stupid – PTS, p. 719).

18.ĐONG: (động từ) đo thể tích chất lỏng hoặc chất rời (TĐTV, tr, 331). Pāli: DOṆO: (trung tính)thường dùng để đo sức chứa (usually as measure of capacity- PTS, p. 754).

19.ĐÙ: (động từ - lóng), tiếng chửi thề (TĐVN, tr. 494). Pāli: DU (bất biến từ), một âm tiết của thán từ duḥ, mang nghĩa xấu xa, khốn kiếp (syllable of exclamation (=duḥ) “bad, woe” (beginning the word du (j)-jīvitaŋ) – PTS, p. 740).

20.GIÀ (tính từ) ở vào tuổi có những hiện tượng sinh lý suy yếu dần, trong giai đoạn cuối của quá trình số tự nhiên (TĐTV, tr, 383). Pāli: JARA (tính từ), già yếu, suy nhược (old, decayed – PTS, p.643).

21. KHẨN (động từ) khai phá đất hoang(TĐTV, tr, 495). Pāli: KHAṆA: (động từ, căn ngữ khaṇ), đào bới (digging – PTS, p. 539).

22.KHẨN (tính từ) có tính chất cần kíp, không thể trì hoãn (TĐTV, tr.495). Pāli: KHAṆA (nam tính), một khoảnh khắc, một cái chớp mắt, trong cụm từ khaṇen'eva  thì có nghĩa không có thời gian(moment, wink of time; in phrase khaṇen'eva "in no time” - PTS, p. 539)

23. KHAM (động từ) chịu được cái nặng nề so với sức lực của mình (TĐTV, tr, 491). Pāli: KHAMA(tính từ) nhẫn nại, khoan thứ, sự chịu đựng bền bỉ (patient, forgiving, enduring, bearing – PTS, p.545).

24.KÍN (tính từ) ở trạng thái giữa trong và ngoài được ngăn cách làm cho không có gì lọt qua (TĐTV, tr. 528). Pāli: KIṆṆA (quá khứ phân từ của kirati) được che phủ (covered – PTS, p. 502)/

25. KÍP (tính từ) gắp đến mức phải làm ngay, không thể chậm trễ (TĐTV, tr.531). Pāli: KHIPPA (tính từ), nhanh, trong nghĩa văn vẻ về cách quăng ném; mang tính so sánh nhanh như tên bắn (quick, literary, in the way of throwing, compare, “like a shot” – PTS, p.551).

26. LẮP BẮP (động từ) Miệng mấp máy phát ra những tiếng rời rạc và lắp lại, không nên lời, nên câu (TĐTV, tr.551). Pāli: LAPATI, (động từ, căn ngữ lap) nói lảm nhảm, lẩm bẩm (prattle, mutter – PTS, p.1302).

27. LÈN (danh từ) núi đá có vách cao dựng đứng (TĐTV, tr.559). Pāli: LEṆA (trung tính), một cái hang (trong khối đá), một cái hang động (a cave “in a rock”, a mountain cave – PTS, p.1314).

28. (tính từ) ở trong một tráng thái cứ thế không thay đổi, bất chấp mọi tác động bên ngoài (TĐTV, tr.565). Pāli: LĪNA: bám chắc vào, gắn bóchậm chạpđần độn (clinging, sticking, slow, dull – PTS, p.1310).

29. MA (danh từ,) người đã chết (TĐTV, tr.603). Pāli: MARA (tính từ, căn ngữ mṛ) sự chết (dying – PTS, p.1185).

30.MẠ: (danh từ - phương ngữ), mẹ (TĐTV, tr. 605). Pāli: MĀTAR (danh từ giống cái), mẹ (mother– PTS, p. 1193).

31. NÁC (phương ngữ), nước (TĐTV, tr.655). Pāli: NADĪ (giống cái, số nhiều), chỉ cho nước (the waters- PTS, p. 786).

32.NẠT (động từ), quát to cho phải sợ mà nghe theo (TĐTV, tr.658). Pāli: NADATI (động từ, căn ngữnad), gào thét, tạo nên một tiếng động (to roar, make a noise – PTS, p. 786).

33.NỎ (phụ từ, phương ngữ) Chẳng. Ví dụ, nỏ biết: chẳng biết, không biết (TĐTV, tr.731). Pāli: NO(bất biến từ), một cách nhấn mạnh của chữ không (na) (a stronger na – PTS, p.860).

34.PHA (động từ) trộn lẫn vào nhau theo một tỉ lệ nhất định để tạo thành một hỗn hợp vào đó (TĐTV, tr.760). Pāli: PHARAṆA (động từ, căn ngữ pharati), sự xâm nhập, tràn ngập (pervasion, suffusion - PTS, p. 1084)

35.PHA (động từ) cắt, xẻ một khối nguyên ra thành từng phần để tiện sử dụng (TĐTV, tr.761). Pāli:PHALATI (động từ, căn ngữ pha), tách ra, phá vỡ (to split, break open - PTS. 1087)

36. PHẦN (PHẬT) (tính từ) từ mô phỏng tiếng như tiếng của mảnh vải bay quật vào không khí trước làn gió mạnh (TĐTV, tr. 773). Pāli: PHANDATI (động từ) đập mạnh, xao động (to throb, palpitate – PTS. p.1084)

37.PHÈN (danh từ) chất khoáng dưới đất đóng lại như muối hoặc hòa trong nước, vị chua, có nhiều màu sắc (TĐVN, tr.1151). Pāli: PHEṆA (danh từ) bọt, cặn bã, bọt (scum, foam, froth- PTS, p.1093-1094).

38.PHÌ: (tính từ) có nhiều màu mở, giàu có (TĐVN, tr.1156). Pāli: PHĪTAsang trọngthịnh vượng,giàu có (opulent, prosperous, rich – PTS, p.1091)

39. PHỈ (danh từ) thỏa mãn nhu cầu thuộc về tinh thần (TĐTV, tr.778). Pāli: PĪTI: (giống cái) cảm xúcvui sướng, niềm hân hoanvui vẻ, tràn đầy năng lượng (emotion of joy, delight, zest, exuberance – PTS, p.1053).

40.PHUN (động từ) làm cho chất lỏng hoặc chất hơi bay ra ngoài thành tia nhỏ qua lỗ hẹp (TĐTV, tr.791). Pāli: PHUNATI (động từ), nhỏ (rưới) từng giọt (sprinkle – PTS, p. 1092).

41.RÁP (động từ) đặt cho khớp vào nhau (TĐTV, tr,822). Pāli: RACANĀ (giống cái, căn ngữ rac), sắp sếp “những đóa hoa thành một tràng hoa” (arrangement “of flowers in a garland – PTS,p.1261).

42. RỰC (tính từ), ở trạng thái đang bừng lên, tỏa mạnh ánh sáng hay hới nóng ra xung quanh(TĐTV, tr,839). Pāli: RUCI (giống cái, căn ngữ ruc), lộng lẫy, chiếu sáng, độ sáng (splendour, light, brightness – PTS, p. 1283).

43. SAY (tính từ), (giấc ngủ) rất sâu, không còn hay biết gì cả (TĐTV, tr.850). Pāli: SAYANA (trung tính, căn ngữ śī), nằm xuống, ngủ say (lying down, sleeping – PTS, p.1573).

44.SÚC (động từ), làm cho sạch bằng cách cho nước vào, và làm cho nước chuyển động mạnh theo đủ cách hướng (TĐTV, tr. 872). Pāli: SUCI (tính từ), sự dọn dẹp (clean, PTS, p. 1619).

45. TÁCH (động từ) làm cho rời hẳn ra, không còn gắn liền với nhau thành một khối nữa (TĐTV, tr.883). Pāli: TACCHETI (động từ, căn ngữ taccha) làm đồ mộc, làm mỏng nó ra (to do wood work, chip – PTS, p.674).

46.THÙ NỊ, hoặc KHU ĐỈ[22] (phương ngữ) cái đầu hồi nhà hình tam giác. Pāli: THŪṆIRA, cái đầu hồi của căn nhà (gable – PTS, p. 710).

47.THÙ LÙ (tính từ - khẫu ngữ), từ gợi tả hình khối to lớn như trồi hẵn lên, đập vào mắt và làmvướng mắt (TĐTV, tr. 959). Pāli: THŪLA, kềnh càng, to lớn, xấu xí, thô ráp (massive, big, clumsy; rough – PTS, p. 710).

48. VÁC (động từ), mang, chuyển (thường là vật nặng hoặc cồng kềnh) bằng cách đặt lên vai (TĐTV, tr.1094). Pāli:VAHA (động từ, căn ngữ vah), khiêng, vác (bringing, carrying – PTS,p. 1357).

49.VẠC (động từ) làm cho đứt, lìa ra bằng cách đưa nhanh lưỡi sắc theo chiều nghiêng trên bề mặt (TĐTV, tr.1094). Pāli: VAPATI (động từ, căn ngữ vap) xén, gặt, cắt (shear, mow, to cut – PTS, p. 1346).

50.VÀI[23] (danh từ), số ước lượng không nhiều, khoảng hai, ba (TĐTV, tr.1095). Pāli: DVAYA (tính từ chỉ số đếm), gấp hai, một đôi, một cặp (two fold, a pair, couple – PTS, p.757).

Có thể nói, còn rất nhiều chữ Pāli có cách phát âm và mang nghĩa tương đồng với Tiếng Việt. Trong lần đầu tiếp cận, chúng tôi xin dừng lại với 50 chữ tiêu biểu nêu trên và sẽ tiếp tục bổ sung khi đủ nhân duyênđiều kiện.

3. Nhận định.


Thứ nhất, từ thống kê cho thấy, trong 50 chữ Tiếng Việt đối chiếu với chữ Pāli thì có 44 từ đơn âmtiết, 4 từ láy vần và 2 từ ghép đẳng lập hợp nghĩa. Theo ngành ngôn ngữ học, từ đơn có lịch sửhình thành rất sớm, là những từ cơ bản nhằm biểu thị các khái niệm chủ yếu trong đời sống sinh hoạt của con người. Số lượng phong phú các từ đơn trong bảng đối chiếu nêu trên, đã gián tiếpphản ánh ý nghĩa lịch sử hình thành Tiếng Việt và dấu ấn của ngôn ngữ Pāli.

Thứ hai, trong 50 chữ Pāli được khảo sát ở trên, phần lớn chúng đều có cách phát âm trùng khớp hoặc gần giống với Tiếng Việt ở một số vùng miền về thanh điệu và ý nghĩaĐặc biệt, theo nghiên cứu công phu của nhóm tác giả bộ từ điển Pāli của PTS, phần lớn những chữ này đều có nguồn gốc từ kinh điển Pāli. Đây là bằng chứng xác thực cho thấy một bộ phận của Tiếng Việt có nguồn gốc từ Phật giáo.

Thứ ba, đa phần những chữ Tiếng Việt được khảo sát ở trên, phần lớn chúng có mặt trong Từ Điển chữ Nôm và hãn hữu xuất hiện trong Từ Điển Hán-Việt. Điều này góp phần chứng tỏ rằng, chữ Nôm đôi khi được dùng như là một phương cách sáng tạo chữ Hán, dùng để phiên âm chữ Pāli.Trường hợp này có thể thấy rõ ở chữ Khu đỉ[24] hay Thu kỷ[25] nêu trên mà nhiều học giả nổi tiếnggiải thích chưa đầy đủ vì chưa đối khảo ngôn ngữ Pāli.

Thứ tư, ngôn ngữ Pāli được xem như tử ngữ và phần lớn những thư tịch được phát hiện cho đếnngày nay chỉ khu biệt trong việc ghi chép kinh điển Phật giáo (Pālibhāsā). Thế nhưng, Tiếng Việt đãtiếp nhận một số thành tố đặc thù của ngôn ngữ này và hiện còn sử dụng. Đây là tín hiệu đáng mừng về sức sống vững bền của một cổ ngữ liên quan đến cội nguồn thư tịch quan trọng của Phật giáo, là ba tạng Nikāya.

Thứ năm, từ những đối khảo ở trên đã mở ra một ước vọng mang tính tham khảo. Đó là, để hiểu thêm về nguồn gốc Tiếng Việt và các thành tố góp phần hình thành nên Tiếng Việt, nên chăng các chuyên ngành nghiên cứu về ngôn ngữ ở Việt Namcụ thể là ngành ngôn ngữ học so sánh(contrastive linguistics), cần bổ sung thêm cổ ngữ Pāli như là một môn học bổ trợ. Vì lẽ, việc trang bị đầy đủ cho người học về ngôn ngữ này và quá trình lan tỏa của chúng, không những góp phầnnhận ra những giá trị tinh hoa Phật giáo, mà còn hiểu thêm về nguồn cội của dân tộc Việt Namthông qua phương diện ngôn ngữ.



[1] Ngài Phật-đà-bạt-đà-la (佛馱跋陀羅:359-429) đến Giao Chỉ bằng đường bộ và từ đây đi nhờ thuyền buôn đến Trung Hoa. Xem, 大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第二,佛馱跋陀羅. Ngài Vu-đạo-thúy (于道邃) đến Tây-Vức cầu pháp theo con đường phương Nam, đến Giao Chỉ thì lâm bệnhrồi mất, hưởng dương 31 tuối. Xem, 大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第四,于道邃

[2]大正藏第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第十三, 康僧會

[3]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第一, 康僧會

[4] Kinh Xuất Diệu đã định nghĩa về kinh Phương Đẳng: 方等者前略後廣,無事不包,故名方等. Xem tại, 大正藏第 04 冊 No. 0212 出曜經, 卷第六.

[5]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第一, 曇摩耶舍

[6] Theo, 南齊書, 卷五十八. Bản in vào năm thứ tư niên hiệu Càn Long (1739)

[7]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳,卷第十二, 釋曇弘

[8]大正藏第 50 冊 No. 2060 續高僧傳, 卷第十六, 釋慧勝

[9]大正藏第 50 冊 No. 2060 續高僧傳,卷第二十一, 釋道禪

[10]大正藏第 53 冊 No. 2122 法苑珠林, 卷第十四; 大正藏第 52 冊 No. 2106 集神州三寶感通錄, 卷中

[11]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第十四

[12]大正藏第 52 冊 No. 2106 集神州三寶感通錄, 卷中

[13] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, NXB. KHXH, Hà Nội, 2004, tr. 127.

[14] Ngô Văn Doanh, Thành cổ Chămpa - những dấu ấn của thời gian, NXB. Thế giới, 2011, tr.33

[15] Ngô Văn Doanh, Thành cổ Chămpa - những dấu ấn của thời gian, NXB. Thế giới, 2011, tr. 186.

[16] Nguyễn Văn Trung, Chữ văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộcNam Sơn xuất bản, Sài-gòn, 1974, tr.60.

[17] Hirakawa Akira, Lịch sử Phật giáo Ấn Độ-từ Đức Phật Thích Ca đến Đại thừa sơ kỳ, Thích Nguyên Hiệp dịch, NXB. Văn Nghệ, 2018, tr.112.

[18] Pāli Text Society. Pāli – English Dictionary. T W. Rhys Davids Edited. Electronic Edition. 1999.

[19] Lê Văn Đức và Tgk, Việt Nam Từ Điển, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, NXB. Khai Trí, 1970

[20] Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, NXB. Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2003.

[21] Ở một số khu vực miền Trung, từ Bắc này cũng mang nghĩa là nấu. Ví dụ, Bắc cơm: nấu cơm.

[22] Theo, Hùinh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quấc âm tự vị, Saigon: Impremerie Rey, Curiol & Cie , 1895, tr 502 ghi: Khu đỉ. Sau đó đã giải thíchThu kỹ, ấy là chỗ cùng hai đầu nóc nhà, về phần giao kỹ hay là giao nguyên (tiếng nói trại). Trên trang Talawas, đăng ngày 26.2.2004, tác giả Hoàng Hải Văn đã có bài khảo cứu Khu đĩ và lồn mèo. Sau khi đối khảo các quan điểm khác nhau và đặc biệt dựa vào tư liệu của Trương Vĩnh Ký, tác giả Hoàng Hải Văn đã đi đến nhận địnhThì ra, "khu đĩ" vốn là "cu đẻ". Thì ra, cái khoảng trống hình tam giác ấy lại là nơi trăng thanh gió mát, cái nơi mà bầy cu tranh nhau chọn làm nơi lót ổ để rồi lâu ngày bị đọc trại tên để biến chuyển thành "khu"!(sic).

[23] Theo Từ điển phương ngữ Huế, bản lưu hành nội bộ của Trần Ngọc Bảo, 2017, có ghi nhậnchữ vày mang nghĩa: nắm, nạm, bó. Theo chúng tôi, chữ vày phát âm gần với chữ dvaya

[24] Hùinh Tịnh Paulus Của, Việt Nam quấc âm tự vị, 1895, tr. 502. Xem thêm, Trương Vĩnh Ký,Chuyện đời xưa, truyện 29, Nhà sách Khai Trí, Sài gòn, 1967. tr. 45.

[25] Lê Văn Đức và Tgk, Việt Nam Từ Điển, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, NXB. Khai Trí, 1970, tr. 1601.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16720)
Trong hơn 20 năm Hòa Thượng Đã tài trợ cho Tăng Ni du học Ấn Độ tổng số tiền 1 triệu USD
(Xem: 17046)
Mục đích cao nhất của kẻ tầm đạo - không kể Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Lão giáo - là luôn luôn tỉnh giác về sự nhất thể và về mối tương quan của mọi pháp...
(Xem: 17693)
Một phương đã rực suối nguồn, Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn...
(Xem: 13394)
Thực ra, nếu bạn biết quan sát cho sâu sắc vào thân tâmhoàn cảnh hiện tại thì chẳng có cái gì gọi là ta và của ta cả.
(Xem: 18396)
Con người không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng khoan dung.
(Xem: 16208)
Quán Âm ở đây chính là chánh niệm tỉnh giác. Chánh niệm nghĩa là bạn trở về với chính mình, tỉnh giác là thấy rõ thân tâmhoàn cảnh đang xảy ra trong hiện tại.
(Xem: 14891)
Từ ái và bi mẫn cho tất cả mọi sự sống, con người và không phải con người, là vấn đề duy nhất tồn tại có thể làm cho tương lai loài người là có thể duy trì.
(Xem: 15937)
Tình thương trong đạo Phật không dính dáng gì tới một trường hợp đặc biệt nào. Nó được đặt trên một ý thức rất rõ ràng về sự phụ thuộc của chúng ta vào toàn thể vũ trụ.
(Xem: 16158)
Chúng ta luôn nghĩ cách làm giàu và tiêu thụ cho bản thân nhưng không nghĩ đến những thiệt hại về môi trường. Chúng ta đang đi trên một con thuyền của hành tinh.
(Xem: 16186)
Cách khác để chuyển hóa lo âu là phải giảm tính tự kiêu, cho mình là trung tâm và luyện tâm trí bằng cách quan tâm nhiều hơn đến mọi người chung quanh...
(Xem: 15336)
Những lời Phật dạycon đường hoàn thiện mình cho tốt đẹp, đừng làm điều gì sai trái để cho giới trẻ bây giờ bớt đi cách sống có hại cho xã hội, đem lại lợi ích cho xã hội.
(Xem: 14945)
Theo Thế Tôn, giới hạnh hay đức hạnh, đạo đức của một cá nhân chính là nhân tố quan trọng nhất để hàng Phật tử chúng ta bày tỏ và thể hiện ứng xử cung kính...
(Xem: 15383)
Họ là hai anh em, tuổi đã cao, trên dưới tuổi về hưu. Người anh sống ở Sài Gòn còn người em sống ở một thành phố lớn miền Trung. Do tuổi tác cũng kề nhau...
(Xem: 15572)
Hạt Giống Hạnh phúc luôn sẵn có trong ta đó Bạn, mình chưa thấy được vì mình chỉ biết soi gương để chăm sóc và ngắm nhìn nhan sắc của mình bên ngoài mà thôi...
(Xem: 17232)
Tại sao tôi hiện hữu trên cõi đời này, với hình tướng và khuôn mặt này, tôi có gia đình, dòng họcha mẹ đã đặt cho cái tên, đánh dấu sự có mặt của tôi trên cuộc đời.
(Xem: 25801)
Chúng ta đừng chỉ biết nhìn vào những sai lầm đó mà hãy nghĩ đến những gì họ đã cố gắng, đã nỗ lực để làm tốt công việc của mình!
(Xem: 13928)
Khó khăn thì chẳng ai nhìn, Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên... HT Thích Như Điển
(Xem: 17423)
Những người hữu duyên với đạo Phật, đang thực hành pháp để chuyển hoá khổ đau, đem lại an lạc cho mình, từ đó, sẽ ảnh hưởng đến mọi người tiếp cận với những an vui...
(Xem: 17561)
Đơn giản chỉ là một cánh cửa phía sau nhà thôi, nhưng nó đã đi vào nếp sống, nếp nghĩ của mỗi người trên mảnh đất “lắm nắng nhiều mưa” của quê hương tôi.
(Xem: 17030)
Khách thập phương đến lạy Phật ngày càng đông. Những tà áo dài xanh đỏ làm chùa thêm đẹp. Những âm thanh từ chiếc chuông chùa nghe thanh thoát một cách lạ kỳ.
(Xem: 14360)
thiện căn vốn bởi lòng ta cho nên chữ Tâm không phát xuất từ Thần Linh (God) mà nó phát xuất từ bản chất thuần lương vốn có của con người: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”.
(Xem: 13479)
Cứ để mặc cho mây trắng bay, cứ để mặc cho những nỗi niềm kia đau đáu, hay, tôi phải làm gì đó cho chính bản thân mình để rồi cống hiến lại cho dòng đời này tương tục... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15645)
Trên đỉnh núi này, trong một buổi giảng pháp, Phật không nói gì, chỉ cầm một đoá hoa nhìn đại chúng. Chẳng ai hiểu gì, chỉ một vị đệ tử có tên Ca-diếp mỉm cười thầm lĩnh hội.
(Xem: 36546)
Bài Diễn Văn Trong Lễ Phát Giải Thưởng Danh Dự Cho HT Thích Minh Tâm & HT Thích Như Điển - những người có công mang ánh sáng Phật Pháp đến Âu Châu
(Xem: 16334)
Những ai có may mắn cảm nhận Sự Sống là "một nhưng nhiều" có lẽ sẽ đến với một nhận thức mới về con người và cả muôn thú hay thiên nhiên.
(Xem: 17028)
Nếu hiện tại, bạn đang ở trong hoàn cảnh kém vui, thì đây cũng là dịp may mắn để bạn tìm về Chánh Pháp, chấn chỉnh lại Phước Trí cho đời này và đời sau.
(Xem: 15399)
Sự tôn trọng được đạo Phật mở rộngđào sâu để chúng ta có được sự yên tâm và hài hòa trong tâm thức. Sự tôn trọng sâu rộng ấy sẽ nâng cấp, tịnh hóa, thiêng liêng hóa tâm thức.
(Xem: 15962)
Đứng bên gốc cây xứ hoa vàng nhìn xuống sân trường, nhìn đám học sinh ngây thơ nhảy giỡn, hay nhìn đoàn nữ sinh cầm tay nhau chầm chậm bước trên lối đi...
(Xem: 14043)
Nói về sự đóng góp cho hoạt động từ thiện, dân Mỹ vẫn chi tiền, từ vài ba chục đến vài ba ngàn cho cả triệu hiệp hội hoạt động trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, tôn giáo...
(Xem: 16388)
Ta khổ đau và thất vọng, vì tri giác sai lầm của ta đã tách ta ra khỏi thế giới hòa điệu nhất như tuyệt đối, để khiến ta đuổi bắt một bản ngã ở trong thế giới ảo tưởng...
(Xem: 15918)
Một vấn đề thuộc phạm trù văn hóa Phật giáo được đặt ra là một bản dịch hoàn chỉnh cho Đại tạng kinh Việt Nam sẽ dựa trên căn bản Đại tạng kinh nào.
(Xem: 17878)
Cốt lõi thông điệp của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Darbar Hall of the Taj Palace Hotel, New Delhi là chúng ta nên tìm hạnh phúclòng từ bi compassion từ bên trong.
(Xem: 16018)
Khi tâm ý yên tịnh, lời bạn nói ra sẽ chứa đựng an hòa, nội dung sâu sắc tỏa chiếu tình thương yêu, lòng hoan hỷ khiến cho người nghe cảm thấy ấm áp, thân thương...
(Xem: 19814)
Trong sự gắn bó với đời sống của dân tộc Việt Nam cũng như với thi ca, một phần tính chất từ bi của đạo Phật đã được hình tượng hóa với hình ảnh Đức Phật Quan Âm...
(Xem: 20949)
Nếu khônglòng từ bi thì hận thù sẽ chồng chất từ kiếp này sang kiếp khác. Chỉ có lòng từ bi mới cởi trói được những nỗi oan ức và những khổ đau của đời mình.
(Xem: 13639)
"Trước người rồi sau mình, không tham lam danh lợi, thời già trẻ hòa thuận, mà chánh pháp không bị suy thoái"
(Xem: 13812)
"Hạnh phúc là những gì người ta đang có, chứ không phải những gì người ta đi tìm"... HT Thích Như Điển
(Xem: 14698)
Viết để kỷ niệm nhân 30 năm thuyền nhân Việt Nam có mặt tại Berlin... HT Thích Như Điển
(Xem: 14057)
Hòa giải, được biểu hiện qua cái tách hình sọ người (chứa đầy thuốc an thần), là khả năng để chúng ta trước tiên giải quyết các bất đồng một cách nhẹ nhàng, êm thắm.
(Xem: 15153)
Duyên khởi câu chuyện cho chúng ta thấy rằng, cốt yếu của ẩn dụ này chính là vấn đề nhận thức - cố chấp cho nhận thức của mình là đúng, trong khi thực sự nó là sai...
(Xem: 14881)
Chùa nhỏ, đất hẹp như vậy mà Ni chúng ở đây đã có những lúc tập trung đến 50 vị, tạo thành một đạo tràng trang nghiêm, nề nếp... Vĩnh Hảo
(Xem: 13886)
... Thầy sẽ là người bạn đồng hành với các con trên đoạn đường bóng xế của đời mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 13725)
Là người con Phật, chúng ta hiểu rằng chư Phật và chư vị Bồ Tát thị hiện ở đời là nhằm cứu độ chúng sinh. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy rất rõ...
(Xem: 15406)
Chúng ta thực hiện việc hành hương để giúp chúng ta nhớ tất cả những giáo huấn của Đức Phật, những tinh hoa của những điều được thấy trong bốn tuyên bố mà Ngài đã dạy...
(Xem: 28231)
Thỉnh thoảng lấp liếm từng đợt sóng nhỏ rồi rút đi. Nước thấm vào cát. Cát hiện thành thơ. Thơ thấm vào biển hát lời ngân nga... Nguyên Siêu
(Xem: 22406)
Niệm Phật. Nhớ nghĩ đến Phật. Thầm tưởng đến Phật. Phật luôn hiện hữu trong tâm. Phật và tâm bất ly. Bất đoạn. Chẳng hai. Như nhất... Nguyên Siêu
(Xem: 17266)
Trong cuộc sống hằng ngày, bình thường con người chúng ta ai cũng bị vướng vào một trong hai trạng thái buồn vui... Nguyên Siêu
(Xem: 17175)
Hình tướng của thời sơ tâm vẫn còn mường tượng. Dòng sông nọ. Mái chùa xưa như vết mòn thời gian lặng mờ trong dĩ vãng... Nguyên Siêu
(Xem: 15185)
Có một năng lượng diệu kỳ nào đó đang lan tỏa trong cơ thể của cô! Cô cảm thấy người mình như vừa thoát khỏi cơn ác mộng, tâm hồn nhẹ nhõm và bình yên hơn.
(Xem: 16256)
Theo quan điểm của Đạo Phật, một người, một đối tượng hay ngay cả một thời điểm nào đấy được diễn tả như 'thiêng liêng' khi nó không bị nhơ uế hay nhiễm ô bởi tham lam...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant