Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thượng Võ Và Từ Bi

01 Tháng Tám 201815:02(Xem: 4486)
Thượng Võ Và Từ Bi

Thượng Võ Và Từ Bi

Nguyên Giác

 

Thượng võ, có nhiều nghĩa. Trong danh từ, nghĩa đơn giản là đề cao, ưa thích võ thuật. Nhưng tĩnh từ, có nghĩa là tâm hồn cao thượng của người đã sống được võ đạo, nghĩa là tử tế, công bằng, không gian lận. Đối với Phật tử, tinh thần thượng võ đã nằm sẵn trong năm giới, vì nếu không thượng võ, có nghĩa là đi trộm hào quang của đấu thủ khác, của đội tuyển khác, của quốc gia khác. Tuy nhiên, nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Bởi vì từ bi do vì muôn dân mà làm, chứ không vì kiêu mạn.

Tất cả những cuộc tranh tài hiện nay đều cần tinh thần thượng võ. Tức là khi ra sức tranh tài, vẫn cố gắng giữ gìn sự tử tế, công bằng, một tinh thần mã thượng.

Tất cả các kỳ Thế Vận đều có một Lời Tuyên Thệ Thế Vận (The Olympic Oath). Không chỉ thuần túy để ngăn cản sự gian lận, nhưng cũng vì nhiều môn tranh tài trong Thế Vận có thể nguy hiểm, gây thương tích hay làm chết người như các môn đấu võ, đấu kiếm, bắn cung… Bất kỳ sự gian lận nào, ra ngoài nội quy  tranh tài, đều có thể nguy hiểm.

Trong lễ khai mạc Thế Vận, người đọc Lời Tuyên Thệ Thế Vận là người đại diện nước chủ nhà, sẽ cầm một góc lá cờ và đọc lên lời này.

Chữ “thượng võ” trong tiếng Việt khi dịch sang Tiếng Anh có thể là: chivalry (tinh thần mã thượng), knightliness (hào hiệp), sportsmanship (tinh thần thể thao), fair play (tranh tài công bằng)…

Lời Tuyên Thệ Thế Vận đầu tiên được tuyên đọc là năm 1920 trong Thế Vận Mùa Hè ở thành phố Antwerp (Bỉ quốc). Người tuyên đọc lúc đó là Victor Boin (vừa là kiếm sĩ, vừa là tuyển thủ môn bóng nước), với các lời này: “Chúng tôi thề. Chúng tôi sẽ tham dự Thế Vận trong tinh thần thượng võ, vì danh dự đất nước chúng tôi, và vì vinh quang thể thao.” (We swear. We will take part in the Olympic Games in a spirit of chivalry, for the honour of our country and for the glory of sport.)

Năm 1961, chữ “chúng tôi thề” sửa thành “chúng tôi hứa” và “danh dự đất nước chúng tôi” thay bằng “danh dự các đội của chúng tôi” nhằm xóa bỏ tinh thần quốc gia dân tộc trong Thế Vận. 

Có một số chuyện thường được kể về tinh thần thượng võ trong Thế Vận.

Trường hợp Thế Vận Berlin năm 1936, với hai tuyển thủ Nhật Bản về môn nhảy sào: Shuhei Nishida và Sueo Oe.

Sau khi tuyển thủ Mỹ Earle Meadows thắng Huy chương vàng môn nhảy sào, hai tuyển thủ Nhật Bản Nishida và Oe phải tranh nhau Huy chương bạc. Cả hai đều nhảy cùng một độ cao, nhưng Huy chương bạc được trao cho Nishida vì ít lỗi hơn Oe. Như thế, Huy chương đồng trao cho Oe. Tuy nhiên, khi về lại quê nhà, hai anh Nishida và Oe cắt đôi huy chương của họ làm thêm hai mảnh, để ráp lại làm thành hai huy chương mới: nửa bạc, nửa đồng. Báo chí lúc đó gọi đó là "các huy chương tình bạn."

Một trường hợp khác cũng thường được kể về tinh thần thượng võ: nữ kiếm sĩ Judy Guinness trong Thế Vận Los Angeles 1932.

Guinness đại diện Anh quốc trong cuộc thi môn đấu kiếm đơn kình với Ellen Preis, nữ kiếm sĩ Áo quốc. Guinness thắng Huy chương vàng. Tuy nhiên, Guinness thông báo Ban giám khảo rằng họ bỏ sót hai điểm cho cô Preis vì không thấy mũi kiếm cô Preis chạm vào bộ võ phục của Guinness. Khi tính điểm đó vào, kiếm sĩ Preis được  Huy chương vàng, Guinness được Huy chương bạc. Cực kỳ hy hữu. Bởi vì, không mấy người muốn rời ngôi "Thiên hạ đệ nhất kiếm" chỉ vì muốn giữ sự trung thực.

Tới đây, chúng ta có thể hỏi: các nhà sư Việt Nam đã xem việc luyện võ, hay việc luyện tập các môn thể thao như thế nào? 

Có thể thấy rằng, tất cả hành động của Phật tử, cho dù là xuất gia hay tại gia, đều phải từ lòng từ bi mà làm. Nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Nói từ bi, là nói vì muôn dân mà làm, không phải vì tên tuổi cá nhân hay chỉ vì thuần túy tìm vui. Như thế, hạnh Bồ Tát có khi phải ra trận, chịu sát nghiệp… vì nếu sơ xuất, cứ xem Tây Tạng bị Trung Quốc xóa sổ mà biết lo.

Nhà vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cả nước đẩy lùi các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, và rồi năm 1293, truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Trần Nhân Tông vào chùa, xuất gia, lấy hiệu Trúc Lâm đại sĩ, khai sáng Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Namtinh thần nhập thế.

Tâm từ bi của Trần Nhân Tông thể hiện ở nhiều trường hợp. Khi chiến thắng quân Nguyên xong, vua ra lệnh đốt tất cả những bằng chứng có thể kết tội những người đã từng đồng lõa với phương Bắc. Khi tang lễ cho thượng hoàng Thánh Tông năm 1290, Trần Nhân Tông nghe lời quan Đỗ Quốc Kế bằng cách dùng ngựa thay cho kiệu. Sách chép rằng Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế khuyên vua Nhân Tông: "Phàm để tang không nên làm thương tổn người sống. Nay thiên tử đều dùng kiệu khiêng, thế là người sống bị tổn thương, xin hãy cưỡi ngựa" – và Nhân Tông nghe lời họ Đỗ. Để giúp dân khi đói nghèo, Trần Nhân Tông cũng phát chẩn, bỏ thuế đinh… 

Trong sử Việt cũng kể về các nhà sư giỏi các môn thể thao. Thí dụ, như trong môn chèo thuyền, có Thiền sư Pháp Thuận. Thực tế, chèo thuyền phải là chuyên nghiệp. Không ai tập vài ngày mà đóng vai chèo thuyền cho vững vàng. Bên cạnh kỹ năng khéo léo chèo thuyền, cũng phải có sức khỏe trên trung bình.

Pháp Thuận (914-990) trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Sư học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ. Năm 987, có người Tống là Lý Giác sang sứ, vua Lê Đại Hành sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Lý Giác cao hứng ngâm chơi hai câu thơ. Sư Pháp Thuận đang là anh lái thuyền cầm chèo, ngâm tiếp hai câu nối vần. Sứ nhà Tống kinh ngạc.

Nơi đây, nói về kỹ năng chèo thuyền, chúng ta không rõ Sư Pháp Thuận có dư sức để thi chèo thuyền Thế Vận hay không, nhưng hiển nhiên là phải giỏi môn thể thao này vậy.

nhà sư Việt Nam cũng giỏi môn cử tạ, vác được nhiều tấn đồng đen. Đó là trường hợp Không Lộ Thiền Sư. Ngài có tên Lý Quốc Sư (1065 – 1141), được vua phong quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không, được dân tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng. Sư giỏi y lý, có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân, nên được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn. Đạo Mẫu tôn vinh Sư là vị thánh trong tứ bất tử. Truyền thuyết kể rằng Sư từng thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Phải chăng đó cũng là môn võ mình đồng da sắt? 

Theo truyền thuyết, Ngài Không Lộ từng chữa bệnh cho vua phương Bắc. Khi vua trả ơn, hỏi muốn lấy gì, Sư nói chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Và thế là tất cả kho đồng của vua phương Bắc đều chui vào tay nải của ông trước sự kinh ngạc của triều đình. Ông lại thả nón tu lờ làm thuyền bơi về nước Nam. Về đến Thăng Long ông đúc thành chuông. Đó là ngoại sử… Thực tế, không thể có chuyện như thế, vì nếu như thế, Ngài Không Lộ đã phạm giới. Ông bà mình khi đưa vào huyền sử các chi tiết như thế, chỉ có ý cảnh giác đời sau phải coi chừng triều đình phương Bắc.

Nói vể luyện võ để hộ quốc an dân còn có Khâu Ni Công chúa, tên là Nàng A. Theo sách Danh tướng Việt Nam - Tập 4 của Nguyễn Khắc Thuần, do NXB Giáo Dục, ấn bản 2005, viết theo thần tích (sự tích chép lại để nơi đền thờ), cho biết đó nữ tướng này của Hai Bà Trưng nguyên là một ni cô, trích:

“Trong số các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, có một nữ tướng rất đặc biệt, đó là Nàng A - vị nữ tướng vốn xuất thân là một nhà tu hành theo Phật giáo. Theo thần tích ở đền Nhật Chiêu (nay thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) thì Nàng A vốn là một cô gái xinh đẹp và rất chịu thương chịu khó (theo tờ thần tích này, Nàng A cũng có khi được chép là Quách A).

Bấy giờ, bọn tay sai nhà Hậu Hán định bắt Nàng A dâng nạp cho quan đô hộ để lấy thưởng, Nàng A đành bỏ làng vào núi để tu, cũng là để tạm lánh bọn ác quỷ. Từ đó, Nàng A có đạo hiệuNi cô Khâu Ni. Nơi Ni cô Khâu Ni tu hành nay chính là chùa Huyền Cổ. Vào thời ấy, quân đô hộ thi nhau ức hiếp dân lành, chúng tàn ác chưa từng thấy, người người đều oán giận, đến cả bậc tu hành từ bi như Khâu Ni cũng không thể nào chịu đựng nổi. Khâu Ni liền bí mật tập hợp những người giàu lòng yêu nước và quyết tâm giết giặc để sẵn sàng chờ cơ hội vùng lên.

Được tin Hai Bà Trưng cũng đang ráo riết chuẩn bị lực lượng cho một cuộc khởi nghĩa lớn, Khâu Ni lập tức đem toàn bộ lực lượng của mình về ra mắt Hai Bà. Hai Bà Trưng rất vui mừng, liền phong cho Khâu Ni làm Tả tướng. Và chính Tả tướng Khâu Ni là một trong những vị tướng có công rất lớn trong trận đánh quyết định vào thành Luy Lâu (Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), khiến cho tướng giặc là Tô Định bị đại bại, phải vất bỏ ấn tín, cạo râu, cạo tóc mà tháo chạy về Trung Quốc. Nhờ công lao này, Nàng được Trưng Nữ Vương phong làm Khâu Ni Công chúa và cho được cai quản vùng đất nay tương ứng với Yên Lạc (Vĩnh Phúc).

Nhưng sau ngày đại thắng chưa được bao lâu thì Khâu Ni Công chúa đã lâm bệnh rồi qua đời. Để khắc ghi công trạngân đức của Khâu Ni Công chúa, nhân dân ở nhiều địa phương nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đã lập đền thờ Bà.”(ngưng trích)

Có một nữ tướng khác của Hai Bà Trưng đã từng hai lần vào Chùa Tiên La: đó là Bát Nàn công chúa. Đạo Mẫu thờ bà Bát Nàn, nên có nhiều đền thờ và có nhiều thần tích viết khác nhau. Bát Nàn tên là Thục Nương, có chồng là một Lạc hầu. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách (chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà Thục Nương cũng bị giết ở Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, bà rời chùa, theo giúp, giữ một đạo quân tiên phong. Năm 41, quân phương Bắc lui. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, bà cởi bỏ nhung trang trở về chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống. Năm 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện dẫn 20 vạn quân sang phục thù, bà dẫn thanh niên trong làng ra giúp nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Thua trận, Hai Bà Trưng tuẫn tiết trên dòng sông Hát, trong khi Bát Nàn cùng tàn quân chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La. Khi quân phương Bắc tới truy sát, vây chùa, bà rút gươm tự sát, không chịu để quân giặc làm nhục. 

Trong cõi này, hiển nhiên là có quá nhiều điều bất như ý. Bất hạnh nhất là rơi vào chiến tranh. Bởi vì, nghiệp sát là nặng. Nhưng trên thế giới chúng ta, không bao nhiêu chỗ có hòa bình. Như với người sinh nơi vùng Trung Đông, không thể nào sống đời bình yên được. Trường hợp như thế, chỉ có Đạo Phật là phao cứu người tuyệt vời nhất, trong đó từ bi luôn luôn là một phần của chìa khóa giải thoát. Bổn Sanh Truyện có kể về một kiếp quá khứ của Đức Phật, khi chiếc tàu chở 500 thương gia lênh đênh ngoài biển, một tên cướp muốn giết toàn bộ các thương gia để cướp tàu hàng. Người thuyền trưởng Bồ Tátlòng từ bi, không muốn tên cướp lãnh nghiệp sát quá nặng, nên mới giết tên cướp để Ngài sẽ nhận nghiệp sát vì lòng từ bi. Đó là một lựa chọn khó khăn.

Đối với các môn thể thao, lựa chọn thực ra dễ dàng hơn. Nhưng trước hết, và sau hết, tinh thần thượng võ phải khởi xuất vì lòng từ bi. Bởi vì, từ bi cũng là một chiếc ghe để qua bờ bên kia.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13893)
Có một ý thức trực giác về nghiệp quả - một sự hiểu biết rằng hạnh phúc, và bất hạnh của chúng ta tùy thuộc vào hành động của chúng ta...
(Xem: 14043)
Con rùa nói: “Tôi không biết chiếc vòng vàng ở đâu? Tôi không thể nhìn thấy, nhưng tôi đã nghe nói rằng tinh túy của toàn bộ Phật giáo là sự phát triển Bồ đề tâm...
(Xem: 13963)
Một ngày, nếu dành cho Thân dăm phút thực sự ngồi yên; rồi bằng quyết tâm, biết đâu sự kỳ diệu sẽ đến, là Tâm và Ý cũng ngồi yên như Thân.
(Xem: 13080)
Dù chỉ mới là những lời giới thiệu cô đọng nhưng súc tích của mỗi vị giảng sư nhưng đại chúng đều cảm nhận được biển tuệ mênh mông của quý ngài...
(Xem: 14564)
Thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn trong việc thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng về lâu về dài sẽ làm hao mòn nhân cách. - Đức Đạt Lai Lạt Ma & Paul Ekman.
(Xem: 14492)
Thông điệp từ trái tim của mỗi người sẽ là sợi dây truyền thông đến cộng đồng, bằng sự tương tác và tương tức; rằng, nếu mình phát đi tình thương thì người khác sẽ cảm nhận được...
(Xem: 19336)
Buổi sáng ra vườn, nhìn lên trời cao bồng bềnh mây trắng/ Nhìn xuống khu vườn, còn thơm ngát sương lan/ Nhìn ra đầm sen, nở rộ những cánh sen hồng...
(Xem: 13805)
Chúng ta ai cũng có sẵn trong lòng tình thương bao la, mang tình thương bao la đó mà làm việc, ta sẽ vượt mọi trở ngại bên trong và bên ngoài
(Xem: 15537)
Người thanh niên lái xe chỉ kịp bỏ vội đồng 5 xu vào cái nón mê của bà cụ rồi lại vội vã đánh xe đi, tránh những tiếng còi xe đằng sau inh ỏi.
(Xem: 13925)
Nó đến Úc, vào lúc Brisbane đang vào mùa hoa phượng tím... Những góc trời tím màu hoa. Chị nói chắc mấy cây phượng nở hoa đón em...
(Xem: 14747)
Sớm. Phố hãy còn lặng lẽ trùm chăn trong cái lạnh của màn sương dày đặc. Mây kéo về giăng kín khiến khí trời thêm buốt giá.
(Xem: 15275)
Mùa sen nở, mùa của những linh thiêng nơi thánh tích và trong lòng người. Những thông điệp được phát đi giữa mùa sen cũng là tiếng nói của lương tri con người trước hiện tại.
(Xem: 14793)
Cuộc sống là một dự án do chính mình thực hiện. Cuộc sống của bạn hôm nay là kết quả của những thái độ và sự chọn lựa của bạn trước đây.
(Xem: 13959)
Cuộc sống là một chuỗi những điều ưu tiên. Và những điều ưu tiên hàng đầu của bạn là gì? Hãy dành cho những người mà bạn yêu quý hơn 5 phút trong quỹ thời gian hằng ngày của bạn.
(Xem: 13543)
Có hai người bạn đang dạo bước trên sa mạc. Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt.
(Xem: 12814)
Bên trong cửa chùa, Nhân trở thành nhà làm vườn chuyên nghiệp tràn đầy niềm say mê sáng tạo cùng với nhiệt tình năng nổ của tuổi trẻ. Hắn có nhiều dự tính cho tương lai.
(Xem: 14010)
Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó...
(Xem: 13165)
“Hôm nay cá nhân tôi sống dưới ánh sáng từ bi của Đạo Phật và tôi đã mang tình thương yêu ấy đến với mọi người, không phải do tôn giáo của tôi mang đến, mà việc nầy khởi đầu bằng tình thương của người mẹ không biết chữ của tôi…”
(Xem: 13725)
Anh và em là những người có đạo. Nhưng đạo của chúng ta là một tôn-giáo nhân bản, một tôn giáo không hề có tín lý hay giáo điều...
(Xem: 13074)
Tôi cố gắng để phát triển một động cơ hay quyết định, mà như một thầy tu Đạo Phật, cho đến khi Phật quả của tôi, cho đến khi tôi đạt đến Phật quả...
(Xem: 13021)
Tin vô thường, ta biết mọi điều không thể mãi mãi như thế này, để không hí hửng vênh vang với cái mình có được, hoặc đau khổ nhụt chí với những thất bại mất mát...
(Xem: 13300)
Bạn sẽ thật sự hạnh phúc khi tiếng nói của nội tâm của mình được vang vọng trong chiều hướng thăng tiến của tâm linh, không còn sự chấp thủ...
(Xem: 14786)
Thật là dễ nếu cảm ơn những thứ tốt đẹp, nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa.
(Xem: 15013)
Giá trị của thành công được đo bằng thước đo của sự khó khăn, như lời Đức Phật dạy: “Ở đời đừng cầu không khó khăn hoạn nạn, vì không khó khăn hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy”.
(Xem: 13131)
Mênh mông là nước, xanh xanh sâu lắng, cười đùa. Vung tay là nước, cười ra nước, hồn của nước non. Giữa khoảng không nầy, không gì có thể bám víu.
(Xem: 15114)
Có những lần ta lắng nghe chiếc lá… Chiếc lá nói rằng… …em thoát thai từ mẹ cây, em sống bởi sự vay mượn khí trời, ánh nắng...
(Xem: 21947)
“Bạch mai, em đi mãi”. Không có sự dừng lại trong vòng chuyển dịch sinh -diệt, diệt – sinh. Nó đắp đổi nhau tạo nên dòng chảy cuộc đời.
(Xem: 15231)
Vô thường không phải là một điều xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu.
(Xem: 14310)
Vậy là bên dưới những cuộc chiến, luôn có góc khuất, sự ẩn tàng của bình yên. Nếu khéo tay một chút, ta có thể phát huy năng lượng tươi tắn của đóa hoa...
(Xem: 14826)
Đối với người biết trích lấy tinh khí của cuộc sống thì chết không có nghĩa là sự suy tàn cuối cùng, nhưng là sự kết thúc trong thanh tịnh của một đời sống trọn vẹn...
(Xem: 14370)
Thiện do Đức Phật trình bày, thiện ấy là tốt đẹp, cao thượng và hoàn chỉnh. Thiện ấy là xuyên suốt mọi thời gian mà không phải từng giai đoạn.
(Xem: 17612)
Nhớ về những điều xưa cũ để định vị mình của hiện tại, để trân quý những gì đã qua, để biết ơn những người đã ở bên mình, là động lực cho mình...
(Xem: 17847)
Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không. Vừng trăng vằng vặc in sông, Chắc chi có có, không không mơ màng. Phan Trang Hy
(Xem: 17865)
Mây trắng bay đi đây đó, phơi mình trong nắng, thế mây trắng có thong dong không? Tôi hỏi và ngồi thật im, quán thật sâu để nghe mây trắng trả lời...
(Xem: 13912)
Trước thế kỷ này các nhà khoa học và thần học đều giả định giống nhau rằng vật chất không thể được tạo ra (hoặc hủy diệt) bằng các phương tiện có trong thiên nhiên.
(Xem: 13552)
Vào cõi thơ Mặc Giang một thoáng chơi, ta càng say đắm, trí tuệđạo đức con người càng tăng trưởng, cảm nhận được niềm vui vô tận.
(Xem: 12807)
Đừng để đến lúc ly biệt rồi mới thấy tiếc nuối những ngày tháng tương phùng. Đừng để tới giờ chia cách rồi mới bàng hoàng nghĩ đến những phút giây gặp gỡ...
(Xem: 14723)
Chúng ta chỉ có hai lựa chọn. Một là cố gắng một cách điên cuồng để đảo lộn mọi thứ, hai là cố gắng chấp nhận hoàn cảnh.
(Xem: 15091)
Ngày nay càng có nhiều sự thừa nhận qua sự phát triển và chứng minh của khoa học về sự nối kết gần giữa trạng thái của tâm và hạnh phúc.
(Xem: 15689)
Bằng việc quán tưởng về tiền bạc, chúng ta có thể cảm nhận được cả hai mặt của đồng tiền: nó có thể dìm ta xuống mà cũng có thể đưa ta lên...
(Xem: 15903)
Chẳng hay tự thuở nào, mỗi buổi sáng mở mắt bỏ chân xuống đất tìm dép để đi là con gọi mẹ. Cất bước, bước chân đầu tiên trong ngày là con gọi mẹ.
(Xem: 15519)
Một tâm thức an bìnhthanh thản giúp ta phát huy tình thươnglòng từ bi dễ dàng hơn, đấy là hai phẩm tính giúp ta loại bỏ mọi sự ganh tị, sợ hãi và nóng giận.
(Xem: 13157)
Đạo Phật nói cho tất cả chúng ta rằng, mọi người trên trái đất nầy đều là anh em. Tất cả chúng ta đều là người con của đức Phật. Bởi vì trong mỗi chúng ta đều có Phật tánh.
(Xem: 15273)
Cô bé choàng tỉnh giấc. Trời đêm. Vắng. Lạnh. Gió se sắt. Một giọng nói êm đềm cất lên: "Chào con gái của mẹ. Con hãy gia nhập đời sống trong khoảnh khắc vô cùng.
(Xem: 15696)
Trong năm giới luật (ngũ giới) dành cho những người con Phật tại gia, giới thứ tư là “không nói dối”. Rất nhiều người Phật tử đồng ý rằng, giới này là giới khó thực hiện nhất.
(Xem: 16447)
Nói dối, ta đã từng. Nói dối, có nghĩa là ta không thật thà. Có lúc bụng dạ ta thật thà nhưng ta nói dối và có khi bụng dạ ta không thật thà và ta nói dối…
(Xem: 16189)
Ai đó bảo, ngay khi cho bạn đã nhận lại (rất nhiều). Và thế là tôi áp dụng mệnh đề đó cho bằng an - một giá trị cao quý nơi tâm hồn...
(Xem: 17285)
Thông thường, người ta nói đến bạn có nghĩa là nói đến những thực thể đồng loạicon người. Và thường người ta bỏ quên những thực thể khác...
(Xem: 15805)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta?
(Xem: 14452)
Năm nay sẽ là một năm đặc biệt để người Nhật trải nghiệm sâu sắc về lẽ vô thường, hư ảo của cuộc sống qua từng cánh hoa rơi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant