Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Đầu Sách

21 Tháng Giêng 201917:27(Xem: 3908)
Lời Đầu Sách
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo

LỜI ĐẦU SÁCH

 

Lòng từ bi trong Đạo Phật được định nghĩa như nguyện ước tất cả mọi chúng sanh được thoát khỏi khổ đau.  Buồn thay, chúng ta thật không thể thoát khỏi thế giới khổ đau.  Chúng ta không thể tự đảm đương trách vụ ấy cho chính mình và không có phép thuật nào để chuyển biến phiền não thành hạnh phúc.   Tuy vậy, chúng ta có thể phát triển tâm thức chúng ta trong đức hạnh và nhờ thế hổ trợ người khác cùng làm như vậy.

 

Vào tháng Tám năm 1999, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma được cung thỉnh bởi Trung Tâm Tây Tạng và Tổ Chức Gere ban bố một loạt thuyết giảng ở New York City.  Quyển sách này được hình thành từ những bài giảng ấy.  Trong những trang sách tiếp theo, Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ vấn đề chúng ta có thể rộng mở trái tim của chúng ta và phát triển lòng từ bi chân thậtbền lâu đối với tất cả chúng sanh như thế nào.  Cả cuộc đời ngài là một bài kinh về năng lực của trái tim rộng mở.  Sự rèn luyện tâm linh của ngài bắt đầu khi ngài chỉ là một cậu bé.  Trên việc công nhận như hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 vào lúc hai tuổi, ngài được đưa từ quê nhà vùng Đông Bắc Tây Tạng đến thủ đô Lhasa.  Ngài đã gánh vác vai trò lãnh đạo thế quyền Tây Tạng vào lúc 16 tuổi và được thúc đẩy đặt niềm tin của ngài trong bất bạo độngbao dung đối với những cuộc thử nghiệm nghiêm trọng nhất khi Hồng quân Trung Cộng xâm lược bạo tàn đối với non sông ngài.  Ngài đã làm tất cả những gì có thể để bảo vệ đồng bào ngài và giữ những kẻ xâm lược trong sự lúng túng trong khi cũng theo đuổi việc học tập và thực hành trên con đường hóa độ của Phật Giáo.

 

Năm 1959, khi Hồng quân Trung Cộng chuẩn bị ném bom cung điện mùa hè - Norbulingka , Đức Đạt Lai Lạt Ma hai mươi lăm tuổi đã đào thoát khỏi quê hương.  Hơn một trăm nghìn người Tây Tạng đã đi theo ngài.  Sống ở Ấn Độ và khắp thế giới, bây giờ họ tận tâm với một cuộc vận động bất bạo động cho sự tự do của Tây TạngTừ thị trấn Dharamsala, nép mình bên triền Hy Mã Lạp Sơn, Đức Thánh Thiện đã thiết lập một chính phủ dân chủ để phụng sự đồng bào của ngài - những người vẫn còn ở bên trong quê hương Tuyết Sơn, một số lớn sống trong những trại định cư ở Ấn Độ, và một số sống ở những quốc gia khác.  Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm việc một cách cần mẫn để bảo tồn tất cả những phương diện của nền văn hóa Tây Tạng, nhưng trung tâm nổ lực của ngài là truyền thống tâm linh Tây Tạng, đối với Tây Tạng, tâm linhvăn hóa là không tách rời nhau.  Ngài đã duy trì sự thực hành của riêng ngài về  nghiên cứu, quán chiếu, và thiền tập và đã giảng dạy một cách không mệt mõi con đường tu tập của Phật Giáo đến mọi người khắp thế giới.  Ngài đã tận tình không mệt mõi để tái lập những tu viện, ni viện, và chương trình học tập và thực tập truyền thống, tất cả trong sự phục vụ để duy trì phương pháp thấu hiểu được trình bày bởi vị Khai Tổ Đạo Phật, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni.

 

Lịch sử hình thành Đạo Phật đã quá quen thuộc với nhiều người.  Vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, Hoàng tử Sĩ Đạt Ta đã lìa bỏ đời sống vương giả trong vương quốc của cha ngài bây giờ thuộc Nepal.  Trong khi vẫn là một chàng trai trẻ, Sĩ Đạt Ta đã nhận ra sự vô nghĩa trong đời sống quyền quý của ngài.  Chứng kiến tuổi già, bệnh tật, và cái chết trong đồng bào của ngài, ngài đã bắt đầu thấy qua bức màn lừa dối của của sự an nhànhạnh phúc thế gian.  Một đêm nọ, vị hoàng tử vừa mới kết hôn chẳng bao lâu đã rời cung điện, cũng như vợ và đứa con trai bé bỏng.  Ngài đã cắt mái tóc với thanh kiếm của ngài và đi vào rừng trong mục tiêu giải thoát khỏi đời sống thế gian và những khổ đau mà bây giờ ngài đã thấu hiểu là không tách rời với nó.

 

Người xuất gia trẻ tuổi nhanh chóng tình cờ bắt gặp năm vị đạo sĩ, và với họ ngài dã dành nhiều năm để thực hành thiền quán cùng những sự khổ hạnh khác một cách nghiệt ngã.  Nhưng cuối cùng ngài nhận ra rằng điều đó không đưa ngài gần hơn chút nào với mục tiêu tuệ trígiác ngộ, vì thế ngài đã  rời bỏ những người đồng tu.  Đã từ bỏ những cung cách khổ hạnh quá độ, bây giờ ngài quyết định tự tìm ra chân lý cứu kính.  Ngài đã ngồi dưới cây cội cây tất bát la và nguyện rằng không di chuyển cho đến khi ngài đạt đến mục tiêu của sự thực chứng cuối cùng.  Sau nhiều sự kiên nhẫn, hoàng từ Sĩ Đạt Ta đã thành công.  Ngài đã thấy con đường chân thật mà tất cả mọi hiện tượng hiện hữu và do thế đã đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn và thể trạng toàn giác của một Đức Phật, và cây tất bát la từ ấy được gọi là cây giác ngộ hay cây bồ đề.

 

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đứng lên từ sự thiền quán của ngài và đi vân du khắp miền Bắc Ấn cho đến khi ngài gặp lại năm vị đạođồng hành một thuở nào của ngài một lần nữa.  Ban đầu họ quyết định không chú ý đến sự hiện diện của ngài, khi họ tin rằng ngài đã từ bỏ con đường tâm linh chân chính của họ.  Tuy nhiên, hào quang giác ngộ rực rở của ngài quá tác động họ nên họ đã thỉnh cầu ngài chia sẻ sự khám phá của  ngài.  Đức Phật đã đề ra Bốn Chân Lý Cao Quý: sự thật về khổ đau, nguồn gốc của nó, khả dĩ của việc ngừng dứt khổ đau, và con đường của việc ngừng dứt khổ đau.  Đức Phật chỉ bản chất chân thật của tình trạng khổ đau của chúng ta.  Ngài dạy những nguyên nhân đem đến tình trạng này.  Ngài chứng minh sự tồn tại của một thể trạng mà trong ấy khổ đau của chúng tanguyên nhân của nó đi đến chấm dứt, và rồi thì dạy về phương pháp mà nhờ đấy đạt đến thể trạng này.

 

Trong khi ở thành phố New York, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có ba ngày giảng dạy tại Beacon Theatre.  Chủ đề của những bài nói chuyện này tập trung trên những phương pháp mà nhờ đấy chúng ta đạt đến giác ngộ tối hậu.  Ngài đã đan kết những nội dung của hai luận điển, Những Giai Tầng Thiền Quán - Bộ Vừa[1], bởi đạo sư Ấn Độ vào thế kỷ thứ tám Liên Hoa GiớiBa Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ [2] của hành giả Tây Tạng Togmay Sangpo, thế kỷ mười bốn.

 

Những Giai Tầng Thiền Quán được sáng tác khi vị vua thứ 33 của Tây Tạng, Trisong Detsen cung thỉnh tác giả Ấn Độ của luận điển này sang Tây Tạng nhằm để bảo vệ phương pháp phân tích đối với sự thực hành Đạo Phật được ưu đãi trong những đại học tu viện của Na Lan Đà và Vikramalasila[3]Hình thức này của Đạo Phật được giới thiệu vào Tây Tạng bởi đạo sư Liên Hoa Giới, Tịch Hộ đang bị thử thách bởi Hashang, người diễn giảng một quan điểm ngăn trở bất cứ một hành vi tinh thần nào.  Nhằm để thiết lập hình thức Phật Giáo sẽ được lưu bốTây Tạng, một cuộc tranh luận được diễn ra trước vị vua.  Trong cuộc tranh luận giữa Liên Hoa Giới và Hashang[4], Liên Hoa Giới có thể thiết lập một cách rành rành tầm quan trọng của lập luận tinh thần trong sự phát triển tâm linh và do thế được tuyên bố là người thắng cuộc.  Để kỷ niệm sự chiến thắng của Liên Hoa Giới, vua thỉnh cầu ngài sáng tác một tác phẩm thiết lập vị thế của ngài.  Ngài đã viết Những Giai Tầng Thiền Quán ba quyển: dài, vừa, và ngắn.

 

Tác phẩm của Liên Hoa Giới trình bày một cách rõ ràngchính xác những gì được gọi là những giai tầng "bao la" và "thậm thâm" của con đường đến giác ngộ tối thượng.  Mặc dù thường không được chú ý ở Tây Tạng, nhưng tác phẩm có một giá trị bao la, và Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cống hiến nhiều nổ lực để đem tác phẩm đến thế giới bên ngoài.

 

Tác phẩm thứ hai, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ Tây Tạng[5] là một sự diễn giải chính xácrõ ràng vấn đề sống một đời sống như thế nào để cống hiến cho người khác.  Tác giả của tác  phẩm này, Togmay Sangpo, truyền cảm hứng cho chúng ta thay đổi những khuynh hướng thói quen vị kỷ và để thay vì thế hành động trong việc nhận thức sự phụ thuộc của chúng ta trên đồng loại của chúng ta.  Chính Togmay Sangpo đã đưa đời sống của một vị thầy tu giản dị, tự dâng  hiến chính mình một cách vô ngã vị tha đến người khác qua sự thực hành rộng mở trái tim với từ ái và bi mẫn.

 

Qua những bài giảng này, thông dịch viên Geshe Thubten Jinpa đã trình bày một cách tuyệt vời những khía cạnh vi tế của triết lý Phật Giáo được Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy khi cũng chuyển tải những sự tiếu lâm dễ thương luôn luôn hiện diện trong thuyết giáo của ngài.

 

Vào ngày cuối cùng thăm viếng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, sáng chủ nhật, hơn 200.000 người tụ tập ở sân cỏ phía đông Central Park đề nghe ngài nói về Tám Đề Mục Chuyển Hóa Tâm[6] một thi kệ của một vị thầy Tây Tạng sáng tác vào thế kỷ mười một, Langri Tangpa.  Nói bằng Anh văn, Đức Thánh Thiện đã chuyển tải quan điểm của ngài về tầm quan trọng của việc tôn trọng láng giềng của chúng ta, đồng bào của chúng ta, quốc gia của chúng ta. và toàn thể nhân loại.  Ngài đã chia sẻ cách chuyển hóa kiêu hảnh sang khiêm tốn và sân hận thành yêu thương.   Ngài đã bày tỏ sự quan tâm của ngài đối với sự phân chia giữa giàu và nghèo.  Ngài chấm dứt bằng việc hướng dẫn một lời cầu nguyện cho tất cả chúng sanh tìm thấy hạnh phúc.  Việc chuyển dịch những bài giảng ở Central Park diễn tiến theo lời giới thiệu.

 

Tôi hy vọngcầu nguyện rằng quyển sách này có thể hổ trợ và tất cả những ai đọc quyển sách này trong việc tìm cầu hạnh phúc của họ và rằng niềm hạnh phúc này có thể tiếp theo lan truyền đến những người khác vì thế tất cả những trái tim của loài người có thể thế nào đấy được mở ra.

 

Nicolas Vreeland


 



[1] Với giảng luận của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tuệ Uyển đang chuyển ngữ.

[2] Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ hay Ba Mươi Bảy Điều Thực Hành của Bồ Tát - Tuệ Uyển chuyển ngữ

[3] Vikramaśīla University được thành lập bởi vua Dharmapala (783 - 820) trong sự đáp ứng lại sự suy giảm phẩm chất học bổng tại Na Lan Đà.  Atisha một vị giáo sư học giả nổi tiếng, đôi khi được đứng trong danh sách những vị viện trưởng đáng chú ý.

[4] Heshang Moheyan (和尚摩訶衍) Hòa Thượng Ma Ha Diễn

[5] Đã được Tuệ Uyển chuyển ngữ

[6] Đã được Tuệ Uyển chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10002)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10309)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11218)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9946)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10201)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9644)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10026)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8786)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8516)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10056)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 10007)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9433)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10574)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9120)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10502)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11280)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8496)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12618)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10137)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8439)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9659)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9509)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8111)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9977)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9233)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13359)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9551)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8669)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10318)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8638)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8614)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14196)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10207)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8601)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11495)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11852)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8785)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8117)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9369)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10400)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8701)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8797)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16076)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9887)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11380)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10186)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8356)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
(Xem: 9274)
Theo Phật giáo, con người là hợp thể năm uẩn, gồm sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Khi một người chết đi, phần quan trọng nhất là tâm thức thì theo nghiệp tái sinh.
(Xem: 10016)
Xuất gia không có nghĩa là sự trốn chạy cuộc đời, không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống hiện tạilẩn trốn mọi ràng buộc.
(Xem: 8596)
Nhân quả nghiệp báo rất công bằng, làm phước thì được an vui hạnh phúc, làm ác thì phải chịu quả báo khổ đau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant