Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 15: Phát Tâm Bồ Đề

21 Tháng Giêng 201917:57(Xem: 3621)
Chương 15: Phát Tâm Bồ Đề
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo

CHƯƠNG 15:  PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

 

NGHI LỄ CHO việc phát tâm vị tha nguyện ước giác ngộ là một nghi thức đơn giản.   Mục tiêu của nó là để khẳng định và ổn định nguyện vọng đạt đến Quả Phật của chúng ta vì lợi ích của tất cả chúng sanh.  Sự khẳng định này là thiết yếu cho việc làm nổi bật sự thực hành bi mẫn.

 

Chúng ta bắt đầu nghi lễ này bằng việc quán tưởng một hình tượng của Đức Phật.  Một khi việc quán tưởng là phân minhchúng ta cố gắng để tưởng tượng rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật sự hiện diện trước mặt chúng ta.  Chúng ta tưởng tượng rằng Ngài được vây quanh bởi những đại sư Ấn Độtrong quá khứLong Thọ, người thiết lập trường phái triết lý Trung Quán và sự diễn giải vi diệu nhất về tánh không, và Vô Trướcđạo sư truyền thừa chính của phương diện "phương pháp" bao la của sự thực tập của chúng ta, là ở trong những đại sư ấy.  Chúng ta cũng tưởng tượng Đức Phật được vây quanh bởi những đạo sư của bốn trường phái Phật Giáo Tây Tạng: Sakya, Gelugpa, Nyingma, và Kagyu.  Sau đó chúng ta tưởng tượng chính mình được vây quanh bởi tất cả chúng sanh.  Diễn đàn bây giờ được thiết lập cho việc phát tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.  Các hành giả của những tín ngưỡngkhác có thể tham dự trong nghi lễ đơn giản bằng việc trau dồi một thái độ nhiệt tâm, vị tha đối với tất cả chúng sanh.

 

 

BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN THỰC HÀNH[1]

 

Nghi lễ bắt đầu với một nghi thức mà trong ấy công đức được tích tập và phiền não được tiêu trừ.  Chúng ta tiến hành nghi thức này bằng việc phán chiếu trên những điểm thiết yếu của Bảy Điều Quán Nguyện.

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ NHẤT

Tôn Kính

 

Trong điều thực hành thứ nhất, chúng ta dâng lòng tôn kính với Đức Phật bằng việc quán chiếu trong những phẩm chất của giác ngộ của thân, miệng, và tâm của Ngài.  Chúng ta có thể chứng tỏ lòng thànhtín và dâng hiến bằng việc lễ lạy trước khi quán tưởng hình tượng của Đức Phật.  Bằng việc tỏ lòng quy kính từ trái tim, chúng ta cũng tỏ lòng tôn kính những phẩm chất Phật trong chính chúng ta. (Nhất giả lễ kính chư Phật- Nhị giả xưng tán Như Lai)

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ HAI

Cúng Dường

 

 

Điều thực hành thứ hai là cúng dường.  Chúng ta có thể thực hiện việc cúng dường vật chất hay đơn giản tưởng tượng chúng ta đang cúng dường những sở hữu quý giá đến chúng hội mà chúng ta đang quán tưởng phía trước chúng ta.  Việc cúng dường sâu sắc và đầy đủ ý nghĩa nhất của chúng ta là sự thực hành tâm linh chuyên cần của chúng ta.  Tất cả những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta đã tích tập là kết quả của việc tiến hành trong những hành vi đức hạnh.  Những hành vi bi mẫn, hành vi ân cần, ngay cả một nụ cười mĩm vào người nào đấy hay tỏ lòng quan tâm cho người nào đấy đang đau đớn, tất cả là những hành vi đức hạnh.  Chúng ta cúng dường những điều này trong bất cứ thí dụ nào của lời nói đức hạnh.  Những thí dụ có thể bao gồm những lời khen ngợi, chúc tụng mà chúng ta đã nói với người khác, việc tái cam đoan, những lời êm dịu hay an ủi - tất cả những hành vi tích cực được tiến hành qua lời nói.  Chúng ta cũng cúng dường những hành vi tinh thần của đạo đức.  Việc trau dồi lòng vị tha, cảm nhận về ân cần săn sóclòng bi mẫn của chúng ta. Và lòng tin tưởng sâu xa cũng như sự dâng hiến giáo nghĩa Phật Đà của chúng ta là ở trong những sự cúng dường này.  Tất cả những điều này là những hành vi đức hạnh tinh thần.  Chúng ta có thể quán tưởng tất cả những thứ này trong hình thức của những đối tượng tuyệt đẹp và quý giá phong phú mà chúng ta cúng dường đến Đức Phật và hội chúng được quán tưởng phía trước chúng ta.  Chúng ta có thể cúng dường bằng tinh thần đến toàn thể pháp giớivũ trụ, môi trường của chúng ta với những khu rừng, đồi núi, đồng cỏ, và những cánh đồng bông hoa. Bất kể chúng có thuộc sở hữu của chúng ta hay không, chúng ta có thể cúng dườngmột cách tinh thần. (Tam giả quảng tu cúng dường)

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ BA

Sám Hối

 

Điều thực hành thứ ba là sám hối.  Yếu tố then chốt của sám hối là việc đang nhận thức về những hành vi tiêu cực của chúng ta, những việc làm sai lầm mà chúng ta đã từng dấn thân vào.  Chúng ta nên trau dồi một cảm nhận hối lỗi sâu xa và rồi hình thành một quyết tâm mạnh mẽ không theo đuổi trong những thái độ phi đạo đức như thế trong tương lai.  (Tứ giả sám hối nghiệp chướng)

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ TƯ

Tùy Hỉ

 

Điều thực hành thứ tư là việc tập tùy hỉ.  Bằng việc tập trung trên những hành vi đức hạnh quá khứchúng ta phát triển một niềm hoan hỉ lớn trong việc hoàn thành của chúng ta.  Chúng ta phải bảo đảmrằng chúng ta không bao giờ hối hận bất cứ hành vi tích cực nào mà chúng ta đã làm mà đúng hơn là chúng ta tìm thấy niềm hoan hỉ  với việc thực hành những việc làm tốt đẹp ấy.  Thậm chí quan trọng hơn, chúng ta nên tùy hỉ trong những hành vi tích cực với người khác, những chúng sanh thấp kém hơn chúng  ta, yếu đuối hơn chung ta, cao siêu hơn chúng ta, hay mạnh mẽ hơn chúng ta hay ngang bằng với chúng ta.  Thật quan trọng để bảo đảm rằng thái độ của chúng ta đối với những đức hạnh của người khác không bị làm mờ đi bởi sự ganh đua hay ghen tỵchúng ta phải cảm thấy một sự ngưỡng mộ thuần khiết và hoan hỉ đối với những phẩm chất và sự hoàn thành của họ. (Ngũ giả tùy  hỉ công đức)

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ NĂM và THỨ SÁU

Khuyến Thỉnh và Cầu Xin

 

Trong hai điều thực hành tiếp theo chúng ta thỉnh cầu chư Phật giảng dạy hay chuyển bánh xe  pháp vì lợi ích của tất cả chúng sanh, sau đó cầu xin các Ngài đừng tìm cầu an lạc niết bàn cho riêng các Ngài mà thôi.

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ BẢY

Hồi Hướng

 

Điều thực hành thứ bảy và cuối cùng là điều quán nguyện hồi hướng.  Tất cả những công đức và năng lực tích cực chúng ta đã tạo được từ tất cả những điều thực hành trước và những việc làm đức hạnhđược hồi hướng đến mục tiêu cứu kính tâm linh: việc đạt đến Quả Phật.

 

 

Đã thực hiện những thực tập chuẩn bị của Bảy Điều Quán Nguyện, chúng ta bây giờ đã sẳn sàng để phát sinh thật sự tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.  Bài kệ đầu tiên của buổi lễ bắt đầu với sự hiện diệncủa động cơ thích đáng:

 

Với nguyện ước giải thoát tất cả chúng sanh

 

Câu thứ hai và thứ ba xác định những đối tượng của quy yPhật BảoPháp Bảo, và Tăng Bảo.  Thời điểm của chí nguyện cho việc tìm cẩu sự quy y này cũng được thiết lập trong những dòng này:

 

Con sẽ luôn luôn quy y với
Phật BảoPháp Bảo, và Tăng Bảo.

 

Bài kệ thứ hai là sự phát sinh tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.

 

Được làm cho nhiệt tình bởi tuệ trí và từ bi

Hôm nay với sự hiện diện của chư Phật

Con phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn

Vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Bài kệ này nhấn mạnh tầm quan trọng của tuệ trí và từ bi hợp nhất.  Giác ngộ không là từ bi không tuệtrí hay tuệ trí tách rời từ bi.  Đấy là một đặc thù của tuệ trí thực chứng tánh không được liên hệ ở đây.  Có một sự thực chứng trực tiếp về tánh không, hay ngay cả một nhận thức hay sự thấu hiểu thông tuệvề nó, điều ấy biểu thị khả năng cho một sự chấm dứt sự hiện hữu bất giác của chúng ta.  Khi tuệ trínhư vậy làm đầy đủ lòng từ bi của chúng ta, phẩm chất tiếp theo của từ bi là mạnh mẽ  hơn bao giờ hết.  Chữ 'được làm cho nhiệt tình' (enthused) trong câu kệ này biểu thị một lòng từ bi dấn thân và vô cùng năng động, không chỉ là một thể trạng của tâm thức.

 

Câu tiếp theo,

 

Hôm nay trong sự hiện diện của chư Phật

 

Biểu thị rằng chúng ta đang ngưỡng mộ để đạt được thể trạng thật sự của một Đức Phật.  Nó cũng có thể biết được với ý nghĩa là chúng ta đang kêu gọi sự chú ý của tất cả chư Phật để chứng minh cho sự kiện này, như chúng ta tuyên bố.

 

Con phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn

Vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Bài kệ cuối cùng, từ tác  phẩm Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát của Tôn Giả Tịch Thiên ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 8, được biết là:

 

Cho đến khi không gian còn tồn tại,

Cho đến khi chúng sanh còn hiện hữu,

Cho đến lúc ấy, con nguyện cũng hiện diện

Và xua tan khổ não của trần gian.

 

Những dòng này biểu lộ một tình cảm mãnh liệt.  Một vị Bồ tát phải tự xem mình như vật sở hữu của tất cả chúng sanh.  Giống như một hiện tượng trong thế giới tự nhiên hiện hữu ở đấy để người khác thụ hưởng và sử dụngvì vậy sự hiện hữu và tồn tại của chính chúng ta sẳn sàng cho tất cả chúng sanh.  Chỉ một lần chúng ta bắt đầu nghĩ trong những dạng thức như vậy là chúng ta có thể phát triển một tư tưởng đầy năng lực "Con sẽ dâng hiến toàn bộ sự hiện hữu của con vì lợi ích của người khác.  Con tồn tại chỉ để phục vụ cho chúng sanh".  Những quan điểm năng động như vậy tự hướng vào những hành vilàm lợi ích cho chúng sanh, và trong tiến trình cho những nhu cầu của chính chúng ta được đầy đủ.  Bằng trái lại, nếu chúng ta sống trong toàn bộ cuộc sống bị thúc đẩy bởi lòng vị kỷchúng ta cuối cùngsẽ không thể đạt được những khát vọng vị kỷ của chính chúng ta, sẽ tệ hơn nhiều so với sự cát tườngcủa kẻ khác.

 

Chính Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐức Phật lịch sử, bậc chúng ta tôn kính, nếu đã duy trì một đời sống vị kỷ như chúng ta, bây giờ chúng ta cũng sẽ đối xử với Ngài như những người thông thường khác, và nói rằng, "Ông hãy im lặng.  Ông hãy câm mồm lại".  Nhưng không phải như vậy.  Bởi vì Đức Phật Thích Ca đã chọn bỏ rơi những cung cách vị kỷ và yêu mến người khác, chúng ta xem Ngài như một đối tượng của sự tôn kính.

 

Đức Phật Thích Ca, những đạo sư rực sáng của Ấn Độ như Long Thọ và Vô Trước, và những đạo sưtột bậc của Tây Tạng trong quá khứ tất cả đều đã đạt được thể trạng giác ngộ của các ngài như một kết quả của sự thay đổi hoàn toàn nền tảng trong thái độ đối với chính các ngài và những người khác.  Các ngài đã tìm cầu sự nương tựa.  Các ngài đã ôm ấp sự cát tường của các chúng sanh khác.  Các ngài đã đi đến thấy rằng sự luyến ái và chấp trước chính mình vào tự ngã như kẻ thù sanh đôi và cội nguồn sanh đôi vô đạo đức.  Các ngài đã chiến đấu với hai năng lực này, và đã loại trừ chúng.  Như một kết quả của sự thực tập, những chúng sanh vĩ đại này bây giờ đã trở thành những đối tượng cho sự ngưỡng mộ và noi gương của chúng ta.  Chúng ta phải noi theo gương của các ngài và hành động để thấy sự tự luyến ái và chấp trước vào tự ngã như kẻ thù để loại trừ.

 

Do vậy, trong khi đem những tư tưởng này đến tâm thức và quán chiếu chúng, chúng ta đọc theo ba bài kệ tiếp theo ba lần:

 

Với nguyện ước giải thoát tất cả chúng sanh

Con luôn luôn quy y

Với Phật BảoPháp Bảo, và Tăng Bảo

Cho đến khi con đạt được sự giác ngộ hoàn toàn.

 

Được làm cho nhiệt tình bởi tuệ trí và từ bi

Hôm nay với sự hiện diện của chư Phật

Con phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn

Vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Cho đến khi không gian còn tồn tại,

Cho đến khi chúng sanh còn hiện hữu,

Cho đến lúc ấy, con nguyện cũng hiện diện

Và xua tan khổ não của trần gian.

 

Điều này hợp thành nghi thức phát tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.  Chúng ta phải cố gắng quán chiếuý nghĩa của những dòng kệ này, hay bất cứ khi nào chúng ta thấy có thời gian.  Tôi đã làm điều này và thấy nó rất quan trọng cho việc thực hành của tôi.

 

Chân thành cảm ơn.

 

Wednesday, October 31, 2012 / 11:40:47 AM


 



[1] Bảy điều quán nguyện tương tự như Mười nguyện Phổ Hiền nhưng tóm thâu lại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14148)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16677)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24143)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20574)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18273)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19848)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14844)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12971)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13956)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13147)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14010)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17636)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15398)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14691)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14456)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17852)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21896)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19453)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20605)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25133)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16879)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14711)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18982)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22001)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25283)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15770)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20724)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17014)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18634)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20021)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39308)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31510)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30599)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36015)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23865)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26548)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant