Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Những Khổ Đau

28 Tháng Ba 201907:17(Xem: 6205)
Từ Những Khổ Đau

TỪ NHỮNG KHỔ ĐAU


Bhante Henepola Gunaratana
Diệu Liên Lý Thu Linh

 Từ Những Khổ Đau



Tôi không thể kể câu chuyện của đời mình mà bỏ qua những điều không tốt đẹp;đó sẽ là một bản thảo được “lượt bớt”, và có thể nó sẽ bị coi là gian dối. Và nếu tôi viết về mình như một người chưa bao giờ phải đương đầu với những khó khăn, yếu kém, thì câu chuyện của tôi chắc chắn không thể giúp ai nhìn thấy được giá trị của Phật pháp trong việc đương đầu với những sóng gió của cuộc đời…

 

Viết tự truyện có vẻ không phải là chuyện một vị Tỳ kheo, một nhà sư Phật giáo nên làm, vì các Tỳ kheo chúng tôi phấn đấu để diệt ngã, không phải để tôn vinh nó. Qua thiền quánchánh niệm, chúng tôi muốn buông bỏ ái luyến, thực hành vô ngã. Vậy thì tại sao tôi lại viết cả một cuốn sách về mình?

Cũng khá lạ lùng là ý tưởng ấy lại đến trong những khóa tu thiền của tôi.

Bất cứ khi nào dạy một khóa thiền, tôi thường yêu cầu các thiền sinh viết những câu hỏi trên giấy, rồi bỏ vào trong một cái hộp. Mỗi tối, sau buổi thuyết pháp chính thức về những điều dạy căn bản của Đức Phật, tôi bốc một vài tờ giấy đó ra khỏi hộp, từng cái từng cái, và trả lời bất cứ câu hỏi gì ở đó.

Thường các thiền sinh muốn biết về việc hành thiền: làm thế nào để duy trì mức độ mà họ đã thực hành được ở khóa tu; họ phải làm gì khi quá phẫn nộ đến nỗi họ không thể ngồi yên; làm thế nào để thực hành nếu họ không có một vị thầy tốt ở bên cạnh? Tuy nhiên, đôi khi cũng có người hỏi về cuộc đời của tôi:

“Thưa, Sư đã tu được bao lâu rồi?”

“Thưa, là người sinh ra và trưởng thành ở Sri Lanka, Sư có cảm giác thế nào?”

“Thưa, làm sao Sư có thể giữ được các giới luật của người tu trong cái thế giới đầy những cám dỗ này?”

Khi trả lời những loại câu hỏi này, tôi thường lan man, dông dài. Tôi kể những câu chuyện về đời tôi, và các thiền sinh có vẻ rất thích thú. Thiền đường, thường là nơi yên tĩnh, lại đầy vang những tiếng cười. Các thiền sinh thường nói, “Thưa Sư, Sư nên viết tự truyện cho mình”.

Tôi đã đọc một vài câu chuyện đời của các vị thầy tâm linh nam cũng như nữ, và trong đó, lúc nào hình như cũng có những việc mầu nhiệm, lạ thường xảy đến cho nhân vật chính. Đôi khi, nhân vật chính có thể là người đã tạo ra những phép mầu đó.

Đọc những câu chuyện đầy ấn tượng này, người ta có thể kết luận rằng, những người sống về tâm linh dầu gì cũng rất khác với người bình thường. Nhưng đối với tôi, tôi không thể kể về một sự mầu nhiệm nào. Suốt cuộc đời, tôi chỉ là một người bình thường. Ngay từ thời trẻ, tôi đã được dạy rằng, nếu siêng năng làm việc thì tôi sẽ được những kết quả tốt-không có gì là thần kỳ về điều đó. Có thể dưới nhiều cách nhìn, cuộc đời của tôi cũng rất giống cuộc đời của bạn.

Vì thế tôi rất do dự khi viết quyển sách mà các đệ tử của tôi đã đề nghị. Tôi lo rằng nó sẽ là một biểu hiện của ngã mạn, và người ta có thể nghĩ, ở tuổi già, tôi đã trở nên rồ dại và quá chấp ngã.

“Không nhất thiết là vậy”, một người bạn đã bảo tôi. “Có thể qua câu chuyện đời mình, sư sẽ để lại một bài học gì đó”. Tôi đã suy nghĩ về điều này. Tôi đã quán sát về cuộc đời mình và nhận ra rằng, vâng, đây thật sự có thể là một cơ hội để mọi người thấy rằng giáo lý của Đức Phật là những lời hướng dẫn tuyệt diệu, khiến cho một người tầm thường như bản thân tôi có được một cuộc đời tràn đầy hạnh phúc.

Là một tu sĩ, tôi đã hiến dâng cuộc đời mình để bảo vệduy trì giáo lý của Đức Phật. Tôi đã khám phá ra rằng vì điều đó, Phật pháp đã bảo vệduy trì tôi. Đó là những gì tôi đã học được trong suốt 75 năm của cuộc đời. Và đó căn bản là những gì tôi muốn chia sẻ với bạn trong những câu chuyện có vẻ như dông dài này.

Thí dụ, tôi có thể nói một cách thành thật rằng, bất cứ khi nào tôi cảm thấy tự cao, tự đại trong cuộc đời mình thì tôi phải lãnh chịu nhiều đau khổ. Khi còn là một tu sĩ trẻ trong các Phật học viện, tôi thường dò xét các huynh đệ khác, tôi nói lén, tôi luôn tìm kiếm lỗi của người khác. Và vì thế, tôi luôn đau khổ.

Đúng ra, tôi phải nói rằng, đó luôn là điểm yếu lớn nhất của tôi: tìm thấy lỗi của người. Thoát khỏi được tính xấu đó dầu chỉ chút ít, tôi cũng phải mất rất nhiều năm, qua rất nhiều cố gắng và lầm lỗi, ngay chính bây giờ đôi khi tôi vẫn còn phải tranh đấu với nó. Nhưng dầu ít hay nhiều, tôi cũng rất hạnh phúc để nói rằng, bây giờ tôi có thể chấp nhận người khác như họ là. Và cuộc đời tôi (không kể cả của họ!) đã trở nên thanh thản hơn cũng nhờ đó.

Nương tựa vào những điều dạy của Đức Phật, tôi đã tu tập dần dần để tránh xa những xung đột hơn là tạo ra chúng, hay tệ hơn nữa đi tìm chúng. Điều đó đã khiến cho cuộc đời của tôi được yên ổn không thể kể xiết.

Với sự hỗ trợ của giáo lý và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ đây tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người, bất kể là họ đã làm gì, và hãy tin tôi, thiện tánh này thật không phải dễ mà có được! Tôi đã phải thực hành rất lâu, rất tinh tấn mới được. Niềm sân hận, tự mãn và tánh hay xét đoán của tôi là những mảnh đất màu mỡ để tôi thực hành. Một người đã trở thành tu sĩ, không có nghĩa là người ấy lập tức thoát khỏi những tính cách cấu uế hay không quan tâm đến chuyện thế gian. Như bạn sẽ thấy trong suốt quyển sách, những sự ganh tỵ nhỏ nhen, hại người, sự thờ ơ, lòng độc ác, lúc nào cũng có thể xảy ra.

Giờ nghĩ lại tôi có thể thấy rằng, tất cả những việc dường như rất tồi tệ lúc đó cuối cùng cũng dẫn tới những kết quả tích cực. Tất cả những người hay những hoàn cảnh mà tôi đã nghĩ là chướng nghịch, thật ra cũng đã là những vị thầy thúc đẩy tôi đi con đường đã chọn, chỉ cho tôi những gì tôi cần tu tập để đạt được hạnh phúc.

Nhìn ngẫm lại, tôi rất mang ơn những chuỗi nhân quả kỳ diệu đã xảy ra trong cuộc đời tôi, mặc dầu, lúc đó, nhiều điều đã khiến tôi cảm thấy vô cùng đau đớn, bất hạnh. Nếu cha tôi không phải là một người quá khắc nghiệt , có thể tôi đã không bỏ nhà đi tu. Nếu các vị thầy của tôi đã không phạt tôi quá nặng, tôi đã không tìm đến các trường Phật học. Nếu tôi đã không bị mất trí nhớ và cần”thuốc chữa”, có thể tôi chằng bao giờ quan tâm đến thiền. Nếu tôi không cảm thấy chán làm việc với những người hạ lưuẤn Độ, tôi đã không bỏ xứ sang Malaysia. Nếu visa của tôi được gia hạn ở Malaysia, có thể tôi sẽ chẳng bao giớ phiêu lưu đến nước Mỹ. Và nếu mọi sự đã không tan vỡ một cách đớn đau ở Trung tâm Phật giáo Washington (Washington Buddhist Vihara), có thể tôi đã không thiết lập Hội Bhavana (Bhavana Society). Nhưng đó là cuộc đời tôi và tôi biết ơn tất cả.

Dầu vậy, tôi vẫn thấy đau đớn khi viết về một số điều này, đào xới lại kỷ niệm của những nỗi đau, ưu phiền cũ. Nhiều lần tôi gần như không còn ý chí và đã muốn bỏ ý định viết sách. Trong những khoảng thời gian hoài nghi dằn vặt, tôi luôn nhớ đến câu nói của Mark Twain:”Chỉ có người chết mới nói sự thật”.

Tôi đã nghĩ về những sự thật đôi khi rất khắc nghiệt trong đời tôi, và tôi lo lắng. Nếu tôi viết về chúng một cách thành thật, tôi sẽ phơi bày những yếu kém, những thiếu sót của tôi. Nhưng che giấu sự thật-điều đó cũng không đúng. Hơn thế nữa, hình như không phải là tính cách của một tu sĩ để viết về những lời nói hay hoàn cảnh không được tốt đẹp đã xảy ra hàng thế kỷ trước, để tiết lộ về những người không tốt với tôi, nhất là khi nhiều người trong số họ không còn sống để tự bào chữa.

Thêm vào những nỗi lo của tôi là nền văn hóa nơi tôi sinh ra không ủng hộ việc công khai các cuộc tranh chấp, xung đột. Khi các cháu người Sinhalese của tôi đọc bản thảo đầu tiên của quyển sách này, họ rất kinh hoàng “Sư không thể nói về người ta như vậy”, họ phê bình”Tại sao Sư muốn nhắc lại những vấn đề cũ?Chúng chỉ đem đến những phiền não”

Người Sri Lanka không muốn nghe về những lầm lỗi hay thiếu sót của người tu. Trong mối liên hệ tâm linh giữa người tu và hàng cư sĩ Phật giáo Á châu , việc bày tỏ lòng kính trọng một vị Tỳ kheo bằng cách cúng dường hay giúp đỡ vị ấy, đem lại những phần thưởng tâm linh. Vì thế, nếu họ khám phá ra một vị Tỳ kheo có những điều không xứng đáng, sẽ làm đảo lộn cảm giác về tôn ti trật tự của người cư sĩ.

Vì thế, tôi không thể kể câu chuyện của đời mình mà bỏ qua những điều không tốt đẹp, đó sẽ là một bản thảo được” lượt bớt”, và có thể nó sẽ bị coi là gian dối. Và nếu tôi viết về mình như một người chưa bao giờ phải đương đầu với những khó khăn ,yếu kém, thì câu chuyện của tôi chắc chắn không thể giúp ai nhìn thấy được giá trị của Phật pháp trong việc đương đầu với những sóng gió của cuộc đời.

Chân lý đầu tiên trong Tứ diệu đế của Đức Phậtcuộc đời chứa đầy đau khổ. Chúng ta không thể thoát khỏi khổ đau. Sự chọn lựa duy nhất của chúng ta là phải cố gắng chế ngự các uế nhiễm nơi bản thân, nguyên nhân gây ra đau khổ: tham, sân và vọng tưởng. Chế ngự được các uế nhiễm này là công phu tu tập của cả một đời, mà tôi hy vọngcâu chuyện đời tầm thường của tôi, cuộc hành trình đi đến chánh niệm của bản thân tôi, sẽ chứng tỏ điều đó. Và tôi cũng hằng mong, câu chuyện của tôi sẽ minh chứng rằng, dầu những khổ đau của bạn có thể mãnh liệt tới đâu, bạn cũng sẽ chế ngự được chúng.

Diệu Liên Lý Thu Linh  

MINDFULNESS In Plain English |  Updated and Expanded Edition

Bhante Henepola Gunaratana

Sư là  người Sri Lanka, tác giả của quyển sách best-seller ”Mindfulness in Plain English”, với hơn 100.000 bản đã được phát hành (quyển sách này đã được dịch giả Nguyễn Duy Nhiên chuyển ngữ với tựa đề: Chánh niệm, thực tập Thiền quán)

Sư cũng là tác giả của quyển Eight Mindful Steps To Happiness (Bát chánh đạo, Con đường đi tới hạnh phúc), và một quyển tự truyện được xuất bản năm 2003, với những trang về cuộc đời nhiều gian truân và cũng lắm thú vị  .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24140)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18814)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18267)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12961)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13947)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13144)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21993)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15767)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20711)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18626)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39303)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31502)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26544)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant