Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Lễ Tắm Phật

06 Tháng Năm 201905:38(Xem: 6853)
Ý Nghĩa Lễ Tắm Phật
Ý Nghĩa Lễ Tắm Phật

Thích Trung Định

 
Ý Nghĩa Lễ Tắm Phật

Tắm Phật là một lễ hội văn hóa tâm linh của tất cả mọi người con Phật trên khắp thế giới. Nghi lễ này rất quan trọng trong hầu hết các truyền thống Phật giáo. Mỗi năm vào dịp lễ Phật đản thì nghi lễ tắm Phật đều được diễn ra rất trang nghiêm, trọng thể. Nguồn gốc và ý nghĩa của lễ tắm Phật được bắt nguồn từ sự kiện đản sanh của đức Phật được ghi lại trong kinh điển.

Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, khi đức Phật ra đời có bốn vị Thiên vương dùng vải quý cõi trời nâng đở. Thích Đề Hoàn Nhơn mang lọng báu cùng Đại Phạm Thiên đứng hầu hai bên. Lúc đó có hai vị Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà từ trên hư không phun hai dòng nước ấm và mát để tắm thân Thái tử. Kinh Vị Tằng Hữu cũng mô tả tương tự như vậy: “Khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, từ trên hư không nước mưa rưới xuống, một ấm, một lạnh, để tắm thân thể của Thế Tôn.” Có lẽ chính sự cung kính của chư thiênloài người đối với sự kiện đản sanh của Thái tử được mô tả trong các bản kinh này đã tạo nguồn cảm hứng để về sau trong mỗi mùa Phật đản, người con Phật thường thiết trí tôn tượng đản sanh trong bồn hay thau sạch, quý, đặt trong điện thờ Phật hay một nơi nào đó trang nghiêm, dùng nước sạch có ướp các loài hoa thơm để làm lễ tắm Phật nhằm tưởng nhớ đến ân đức của đức Từ Phụ và bày tỏ niềm tôn kính sâu xa đối với Ngài.

Nghi lễ tắm Phật đã có từ xa xưa, và diễn ra hầu hết ở các nước truyền thống Phật giáo. Tại Ấn Độ, các tự viện thường hay để tượng một vị Phật sơ sinh, mỗi ngày tín đồ có thể tới viếng chùa và lấy nước rưới lên mình Phật như là một hành động tẩy trừ sự ô nhiễm nơi thân Phật, cũng như thân mình. Về sau không rõ đích xác nguyên dotruyền thống này lần lần cải biến. Ở Trung Hoa, vào đời Đường, đời Tống, tắm Phật là một pháp hội rất long trọng, mỗi năm được tổ chức một lần vào ngày Phật đản sinh. Nhất là ở Nhật Bản, vào khoảng năm 840, niên hiệu Thừa Hòa thứ bảy trở về sau, mỗi năm nhằm vào ngày tám tháng tư, lễ tắm Phật được cử hành vô cùng trang nghiêm trong hoàng cung. Vì vậy, ở Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, lễ Phật đản là một ngày vô cùng quan trọng được gọi là Phật Sinh Hội, Dục Phật Hội, Quán Phật Hội… đều là chỉ vào nghi thức tắm Phật cử hành trong ngày ấy.

Trải dài theo dòng lịch sử dân tộc, ngày lễ Phật đản cùng nghi thức tắm Phật đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh cao đẹp trong xã hội Việt Nam. Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược vào ngày mồng tám tháng Tư năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Nhân Tông đã dự xem Lễ Tắm Phật. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, cứ mỗi tháng vào các ngày rằm, mồng một, và đặc biệt ngày mồng tám tháng Tư, nhà vua thường đến chùa Diên Hựu để làm lễ cầu phúc, thiết nghi tắm Phật. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng nói đến việc nhà vua tổ chức lễ cầu an và thiết nghi tắm Phật vào các ngày mồng một và vào mùa xuân. Như thế, đủ để thấy dưới triều Lý, đặc biệt là dưới thời vua Lý Nhân Tông, ngoài lễ Phật đản, lễ tắm Phật cũng được phổ biến trong các sinh hoạt của Phật giáo. Lễ Phật đản cũng như lễ tắm Phật ngay từ thời Lý không chỉ đơn thuần là một nghi lễ của cộng đồng Phật giáo mà nó đã trở thành những sinh hoạt văn hóa chung trong dân gian. Đến các triều đại sau này, Phật giáo cũng thịnh suy theo dòng chảy của lịch sử dân tộc. Khi Phật giáo phát triển hưng thịnh trở lại thì nghi lễ tắm Phật cũng được long trọng tổ chức vào mỗi dịp lễ đản sanh.

Đức Phật ra đời là một sự kiện lịch sử trọng đại của nhân loại. Kinh Pháp Hoa nói rằng ‘Vì một đại sự nhân duyên đức Phật ra đời’, ‘Ngài ra đời là vì hạnh phúc an lạc cho số đông, vì hạnh phúc an lạc cho chư thiên và loài người’, hay ‘khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật chi tri kiến’. Từ sự kiện nhân duyên hy hữu và quan trọng này, mỗi năm đến ngày đản sanh của Ngài, người con Phật long trọng tổ chức lễ khánh đản trong đó nghi lễ tắm Phật là một nghi lễ không thể thiếu trong chuỗi lễ hội này.

Việc tắm Phật là một cơ hội để người con Phật thực tập nếp sống chánh niệm, trau dồi lòng khiêm cung, hướng tâm nhiệt thành đến đức Phật, hay nói cách khác, hướng đến sự viên mãn của đức hạnhtrí tuệ. Nước là biểu tượng của sự tẩy rửa. Tẩy rửa từ dơ biến thành sạch, từ cấu uế trở thành trong sáng, thanh khiết. Do đó nghi lễ tắm Phật vừa biểu hiện sự tôn kính, cúng dường vừa biểu hiện sự thanh lọc những cấu uế, phiền não của tâm. Thành ra, những dụng công trên của mỗi người tham dự lễ sẽ là những yếu tố tối quan trọng để chúng ta tự chuyển, điều phục và thăng hoa tâm thức của chính mình.

Người con Phật thực hiện lễ tắm Phật đúng ý nghĩa phải hội đủ ba yếu tố đó là niềm tin, lòng thành kính và tâm bình đẳng. Với người Phật tử, sự tôn kính, lòng nhiệt thành đối với đức Phật trên nền tảng của chánh kiến mới thực sự mang lại cho chúng ta một niềm tin trong sáng và sự an lạc đích thực, lâu dài. Chánh kiến là cái nhìn đúng dẫn đến hành động việc làm đúng. Mỗi khi dâng một nén hương, một đóa hoa, một phẩm vật lên đức Điều Ngự Thế Tôn, hay khi rưới những dòng nước tinh khiết lên tôn tượng của Ngài, đó chính là nhân duyên thù thắng để mỗi người quay về với chính mình, hầu tự sách tấn, tự trang nghiêm cho bản thân bằng hương đức hạnh, bằng hoa trí tuệ, và bằng nước nhẫn nhục, từ ái, để hướng đến một nếp sống hướng thượng, tỉnh giác. Phải chăng chính những lúc đó, mỗi người đang tự tắm Phật trong từng sát-na của đời mình?

“Con nay tắm gội Đức Như Lai

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ

Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu

Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân”.

Theo các vị Tổ dạy, nước tắm Phật phải lấy từ tánh thiên chơn hay từ vô thức, vô tâm của chúng ta, nghĩa là cùng tột của sự giải thoát. Vì từ tánh thiên chơn mới sanh ra được nước Bát công đức. Nước Bát công đức có một công năng kỳ diệu là có thể tẩy sạch được thân nghiệp chướng ô uế, rửa sạch tâm phiền não trần lao của chúng ta.

Để tắm Phật, chúng ta mượn nước trong sạch, nhưng muốn linh nghiệm phải kết hợp được lòng thành, niềm tin bất hoại và từ tánh thiên chơn của chúng ta. Nếu khônglòng thành, không có niềm tin, không phát xuất từ tánh thiên chơn, thì nghi lễ này không hiệu nghiệm. Công đức thủy này do chúng ta tu hành đúng chánh pháp mà có. Vì thế, phải mượn nước sạch cộng với tâm trong sạchcông đức của chúng ta. Kết hợp ba yếu tố này lại mới thành pháp. Chính vì lý do không đơn giản ấy, nên hình thức tắm Phật tuy giống nhau, nhưng có nơi đạt được sự linh nghiệm, có nơi không. Thực tế chúng ta tham dự lễ tắm Phật, có cảm nhận rằng người chủ lễ trang nghiêm được tâm thanh tịnh, trong sáng, đức hạnh vẹn toàn, nên đã biến nước mưa thành nước Bát công đức. Nước công đức này có công năng xoa dịu những nỗi khổ, niềm đau và làm cho tâm hồn trở nên thanh khiêt, nhẹ nhàng.

“Ngũ trược chúng sanh đều rửa sạch.

      Không còn sanh tử ở trần ai”.

Khi múc gáo nước đầu tiên, tắm bên vai phải của tôn tượng chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp việc phải, vừa ý, gọi là thuận cảnh, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên.  Khi múc gáo nước thứ hai, tắm bên vai trái của tôn tượng, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp việc trái ý, gọi là nghịch cảnh, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên. Đây chính là ý nghĩa sâu xa của nghi lễ tắm Phật và việc tu tập theo đạo Phật vậy.

Ngoài ý nghĩa về sự tẩy trừ cấu uế thân tâm, và lòng thành kính cúng dường chư Phật, Kinh Công đức tắm Phật ghi rằng: “Nếu đối với các bậc giác ngộ mà dùng tâm thanh tịnh để cúng dường hương, hoa… hoặc đối trước tôn tượng các Ngài mà trang hoàng, nghiêm sức, dùng hương quý, nước thơm theo nghi thức mà tắm tôn tượng, đánh trống thỉnh chuông, xưng tán công đức của Như Lai, lại phát nguyện thù thắng, hồi hướng chứng đắc trí tuệ vô thượng, thì hành giả sẽ được vô lượng vô biên công đứctương tục mãi cho đến khi chứng quả Bồ-đề.” Đức Phật còn dạy rằng, “nhờ việc tắm tượng như thế, chúng sanh trong hiện đời được nhiều phước báu thù thắng, sở nguyện thành tựu, hiện đời thọ hưởng giàu sang, an vui, không bệnh, và sống lâu. Mọi điều cầu mong không gì là chẳng toại. Còn bạn bè thân quyến thì thảy đều an ổn. Tám nạn tiêu trừ, ra khỏi bể khổ vĩnh viễn, không thọ thân nữ, và sớm thành chánh giác.”

Như vậy lễ tắm Phật mang một ý nghĩa nhân văn vô cùng cao đẹp. Nơi đó vừa biểu hiện lòng thành kính của người con Phật dâng lên cúng dường nhân ngày Khánh đản của Ngài, vừa là cơ hội để chúng ta nhìn nhận lại chính mình trong ý nghĩa ‘phản quang tự kỷ’, để tẩy trừ những hạt giống xấu, hư và để trưởng dưỡng những hạt giống thiện lành, khai mở chân tâm, nuôi lớn mầm giác, làm cho cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn, mang lại niềm hạnh phúc, an lạc cho nhân loại trên thế gian này.

Tham khảo:

  1. Kinh Pháp Hoa, bản dịch của HT. Thích Trí Quang, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 1998.
  2. Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 109. Đại Việt sử lược, TP.HCM: NXBTPHCM, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 53.
  3. Kinh Công Đức Tắm Phật, Hán dịch: Sa-môn Thích Nghĩa Tịnh đời Đường, Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận. (Giác ngộ online).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 780)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 790)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1155)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 805)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant