Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật: Người Dẫn Đường

30 Tháng Năm 201909:41(Xem: 5528)
Đức Phật: Người Dẫn Đường
ĐỨC PHẬT: NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG 

Nguyên Cẩn


Đức Phật Người Dẫn Đường

Người đã vạch ra con đường 

Đức Phật đã ra đời cách đây 2.643 năm. Giáo sư Lewis Lancaster nói rằng người phương Tây thoạt tiên xem Đức Phật như một nhân vật huyền thoại. Nhưng khi các nhà khảo cổ tìm ra những địa danh trùng khớp với tiểu sử của Ngài, hay những trụ đá dựng lên từ thời Ashoka Đại đế ghi rõ “Đây là nơi Đức Phật sinh ra”, “Đây là nơi Ngài nhập Niết-bàn”…, ông kết luận, rằng: “Như vậy, với thời gian, việc tập hợp những di tích ấy cho phép các nhà nghiên cứu giả định rằng có một nhân vật lịch sửđời sống gần gũi với những câu chuyện kể trong dân gian lưu truyền qua ba thế hệ vào thời vua Ashoka”. 

Gary Gach, trong tác phẩm của mình viết đại ý rằng, chúng ta nên ca tụng người làm ra ổ bánh mì đầu tiên. Cũng như chúng ta vẫn nhớ ơn anh em Wright đi tiên phong phát minh ra máy bay. Khi họ bước lên chiếc máy bay đầu tiên bay vào một chân trời vô định, họ đã làm được một điều vĩ đại. Và nhân loại vẫn sử dụng cách tính toán siêu phàm của họ về những chuyến bay cho đến hôm nay.

Đọc giáo pháp Đức Phật cũng như bước lên một chiếc máy bay (giả định), ở đó Ngài khuyến khích ta đạt tới sự bình an - tỉnh thức, nâng cao tính thiện và khai mở mọi tiềm lực của đời sống

Gach hỏi rằng bạn đã sẵn sàng gặp con người đã vạch ra hành trình đi đến hạnh phúc bền vững một cách trọn vẹn, không tốn kém, rất “đời thường” chưa?1 Đức Phật nói, Ngài chỉ dạy những gì Ngài có thể thực hiện, và Ngài kêu gọi mọi người cùng thực hành và tự khám phá cũng như nhận thức cho riêng mình. 

Ngài là người hướng dẫn chứ không phải Thượng đế và những ai chờ đợi Thượng đế hay vị giáo sĩ nào bảo ban mình nên biết rằng tự họ có thể khám phá những gì mà trong thâm tâm hay trực giác họ đã biết… Đạo Phật vốn tự do không cưỡng ép ai, không giáo điều, không áp đặt quyền uy buộc ai phải theo. Người dẫn đạo không phải là thần thánh hay Thượng đế. Thế nhưng ngày nay con người vẫn còn mộng du trong ác mộng của chính mình. Ngay cả trong giấc mơ ấy, họ luôn luôn có cơ hội để tỉnh thức

Hãy hướng về Đức Phật trong ngày Đản sanh để hy vọng tìm thấy trong giáo pháp của Người một lối đi cho chúng ta, cho xã hội và cho thời đại, nếu có thể.

Năm nay là một năm đặc biệt vì, ngoài những lời chào mừng về ngày Phật đản PL.2563, còn mang theo thông điệp của Ngày Vesak Liên Hiệp Quốc được tổ chức lần thứ ba tại Việt Nam, với chủ đề chính “Cách tiếp cận Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”. 

Lãnh đạo trong tinh thần Bát-nhã 

Thế giới hôm nay đang có nhiều điểm nóng, từ Trung Đông đến Nam Á hay Biển Đông, không kể những kẻ khủng bố đang gieo rắc tai họa ở New Zealand hay Hà Lan. Và nhân loại mong chờ những nhà lãnh đạo sáng suốt lèo lái đất nước mình thoát khỏi hiểm họa chiến tranh có thể xảy ra một thời điểm nào đó khi tham vọng của một vài kẻ bá quyền vượt quá sự tỉnh táo cần thiết

Chúng ta hiểu “Tâm bình thế giới bình”, như kinh Pháp cú nêu rõ “Tâm làm chủ các pháp”. Tất cả mọi việc do tâm tạo ra, tâm làm chủ. Vì vậy, nhận ra tâm mình và làm chủ tâm mình, chúng ta không còn tạo ác nghiệp, thì không còn khổ và không còn sanh tử luân hồi. Nhược bằng khởi tâm tham, muốn chiếm hữu của người khác, muốn đất đai biển cả là của mình, sẽ gây ra phiền não cho bá tánh, kể cả trong nước mình; vì chiến tranh xảy ra, thì nói như các sử gia: “Trong chiến tranh có kẻ thắng người thua, nhưng nhân dân thì chắc chắn thua”, bởi lẽ sao tránh được cảnh nhà tan cửa nát, đầu rơi máu chảy.

Quan điểm vì hòa bình bền vững buộc người lãnh đạo phải biết tu dưỡng thắng nhân. Nghĩa là phải biết “giới, định” để phát sinh “tuệ” hay chính là Bát-nhã, giúp họ minh triết trong giải quyết rốt ráo mọi vấn đề. “Đức Phật không bao giờ xem hòa bình như là một quà tặng từ đâu đến. Quan điểm của Ngài, hòa bình là một ý chí quyết liệt, một cuộc đấu tranh kiên cường, một vấn đề tự giáo dục và tự huấn luyện, để dân chúng có thể yêu quý hòa bình như là một vật báu cần phải thực hiện ngay từ bây giờ, trên quả đất này”2.

Ngược dòng lịch sử, các vua Lý-Trần ở Việt Nam đã chọn con đường tích cực nhập thế khi dấn thân vào các cuộc chiến đấu vì độc lập, gìn giữ hòa bình cho tổ quốc. Họ sống với tâm “Bát-nhã”. Cố Ni sư Thích nữ Trí Hải từng giảng: “Bát-nhã là để mà sống, hành động, thể hiện, chứ không phải để nói suông. Nói mà không làm thì Bát-nhã trở thành huyễn hóa như sương chớp ảo ảnh, hay như người đói mà chỉ bàn về thức ăn, thì không thể no được. Miệng nói Bát-nhã mà vẫn sống và xử sự một cách ngu si, mê muội, thì không phải Bát-nhã… Sống Bát-nhã thì tâm không thể tán loạn, đó là Định. Sống Bát-nhã tâm không ngu si, đó là Tuệ”3

Cho nên mới có người con Phật họ Lý được dân chúng ở nước Đạ Năng miền Tây Bắc Việt suy tôn lên lãnh đạo cuộc cách mệnh dân tộc đánh đuổi quân nhà Lương, xây dựng quốc gia độc lập hơn 30 năm. Đấy là tấm gương đem đạo vào đời phụng sự dân tộc đặc biệt của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên vậy”4. Trong tinh thần đó, Quốc sư Phù Vân đáp lời vua Thái Tông nhà Trần tìm vào núi cầu Phật rằng: “Núi vốn không có Phật, Phật chỉ tồn tại nơi bản tâm mình. Bản tâm lắng trong mà biết, ấy gọi là Phật - thật, nếu bệ hạ giác ngộ được cái bản tâm ấy thì thành Phật liền đây, khỏi khổ sở tìm cầu bên ngoài tâm vậy...”.

Quốc sư khuyên nhà vua: “Phàm kẻ làm vua lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy cái tâm thiên hạ làm cái tâm mình”. Vua Trần Thái Tông đã nghe theo lời dạy ấy để trở về hành động phụng sự dân tộc vào sinh ra tử suốt hơn 10 năm, để rồi sau khi từ giã ngai vàng, giác ngộ rằng tâm không chấp vào đâu, cứ vô cầu mà hành động “Ưng vô sở trụ…” Đấy là tinh thần Thiền học. Sau này nhiều thế kỷ, tinh thần của Gandhi trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ cũng thế khi ông hành động vô cầu để tiêu trừ cái ngã riêng tư đến chỗ Không “Je me réduis à zéro” vậy.

Lãnh đạo hướng đến xã hội bền vững 

Xã hội vốn mang nghĩa hài hòa. Với Tây phương là société, society, từ tiếng La-tinh socius, có nghĩa bạn cùng sống, bạn đồng hành (companion).

Vậy thì xã hội muốn bền vững phải hài hòa. Trước hết, là sự hài hòa trong từng bộ môn. Chẳng hạn kinh tế phải tạo ra sự hài hòa trong chính nó: hài hòa giữa thành thị với nông thôn, hài hòa giữa giàu và nghèo, hài hòa với môi trường sinh thái, với địa lý tự nhiên, với tài nguyên… Hài hòa được như thế tức là kinh tế phát triển bền vững

Vậy lãnh đạo phải tốt và hiệu quả mới có xã hội hài hòa, Đức Phật từng dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái.

Ngài nói: “Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái”5.

Trong kinh Bổn sanh (Jakata), Đức Phật có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọi là “Thập vương pháp” (Dasa Raja Dhamma). Mười nguyên tắc này vẫn có thể áp dụng trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị xứ sở một cách hài hòa. Đó là: Phải cởi mở và không ích kỷ; Duy trì đạo đức cao; Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ cho an sinh của dân chúng; Phải thành thật và ngay thẳng; Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái; Phải sống giản dị để làm gương cho dân chúng; Phải vượt lên trên mọi hận thù; Biết áp dụng tinh thần bất bạo động; Biết nhẫn nại; Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp.

Lời dạy của Đức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân, đã giúp cho vua A Dục (Ashoka), vào thế kỷ III trước Tây lịch, cai trị đất nước của ông. Ông quảng bá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thiện ý của ông, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động. Vị vua này cổ võ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bất bạo động, nhân từ, không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến khích tự do tôn giáobình đẳng tương kính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảng đạo pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi, và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật

Do đó, nhiều học giả xem Đức Phật là một nhà cải cách xã hội vì Ngài đã lên án hệ thống giai cấpcông nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên trí tuệlòng từ bi, chứ không dựa vào lòng tham lam và si muội. Lòng từ bi nếu khôngtrí tuệ trở thành một thứ tình cảm mù quáng, trái lại trí tuệ lẻ loi sẽ không thể là ánh sáng mát lành vì sự kết hợp cả hai giống như sự hòa hợp giữa con tim và khối óc. Cho nên chúng ta xác nhận tình thương vô biêntri giác vô lượng bao giờ cũng là nòng cốt cho việc chuyển mình của xã hội, tôn giáo của Đức Phật, mà nguyên nhân chính là hiện tượng bất công xã hộiđộc quyền tôn giáo

Giảm bớt sự phân hóa giàu - nghèo 

Một báo cáo của Oxfam năm 2017 cho biết, Việt Nam có 210 người siêu giàu (tài sản ròng trên 30 triệu đô-la Mỹ), chiếm 12% GDP cả nước, và con số này sẽ tăng lên 403 vào năm 2025. Báo cáo này cũng ví von rằng người giàu nhất Việt Nam có thu nhập một ngày bằng 10 năm thu nhập của người nghèo nhất, và với tài sản này, có thể đưa toàn bộ 13 triệu người nghèo thoát nghèo ngay tức khắc.

Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) cho thấy rằng khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu với bốn nhóm còn lại (nghèo, cận nghèo, trung bình, cận giàu) đã tăng nhanh trong giai đoạn 2004-2014, tạo ra khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập. 

Chúng ta hiểu rằng hố ngăn cách giàu - nghèo là vấn nạn chung của các nước tăng trưởng nhanh. Trong cuốn sách Tư bản trong thế kỷ XXI - Capital in the Twenty-First Century của Thomas Piketty gây tiếng vang năm 2014, ông phân vân liệu rằng động cơ của việc tích lũy tư bản tư nhân sẽ không tránh khỏi việc tập trung vào tay một thiểu số như Marx hình dung vào thế kỷ XIX hay việc cân bằng các nguồn lực, sự cạnh tranh, và tiến bộ công nghệ sẽ đưa thế giới đến một giai đoạn phát triển, giảm bớt bất bình đẳnghòa hợp hơn giữa các giai cấp như Simon Kuznets quan niệm trong thế kỷ XX? Làm thế nào để tránh tình trạng “bình quân mỗi người một con gà, nhưng một người có chín, chín người có một”. Vì bất bình đẳng thu nhập sẽ dẫn đến các vấn đề của xã hội như tỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng, năng suất lao động bình quân giảm…

Vé vào thế giới hạnh phúc trong tay chúng ta 

Chúng ta không mong chờ vào ai đó, dù là bậc tu hành đức cao vọng trọng hay đấng giáo chủ nào phân phát cho chúng ta. Vé đi vào thế giới an lạc, hạnh phúc nằm trong tay mỗi người, vì hạnh phúc không phải ở bên ngoài.

Có người đã nói: “Giáo thuyết của Đức Phật không dựa trên một ‘triết lý chính trị’ nào cả. Giáo thuyết này không khuyến khích con người đi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo thuyết đó vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu. Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của giáo thuyết ấy là đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con người trong vòng trầm luân, khổ ải”. Kinh Pháp cú (kệ 75) đã tóm tắt: “Con đường đưa đến thủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường đưa đến Niết-bàn là một con đường khác”6.

Và đấy chính là trung đạo - con đường nhân bản. Trung đạocon đường để phục vụ, để dẫn dắt con người hướng thượng. Nếu có một xã hội mà trong đó người ta không những ít bị chướng ngại mà lại còn được giúp cho để tiến lên trong chính đạo, thì phải là một xã hội xây dựng trên căn bản trung đạo. Nó cũng là ước mơ muôn đời của nhân loại. Nhưng rất tiếc, việc thực hiện ở nhiều quốc gia phát triển như Nga, Ý, Pháp, thậm chí Mỹ vẫn chỉ là ước mơ, dù trong thực tế đã có một số nước Bắc Âu hay Nhật Bản đang tiệm cận “con đường” ấy, về phương diện an sinh xã hội và điều hòa kinh tế.

Cần phải có tiếng nói chung giữa giai cấp lãnh đạo với dân chúng thuộc bất kỳ sắc tộc, tôn giáo nào trong một mục tiêu chung: xã hội hài hòa cả Thiên - Địa - Nhân. Đó là cách tiếp cận và là giải pháp của Phật giáo trong tinh thần Ngày Vesak Liên Hiệp Quốc.

Hãy đi vào con đường đã vạch ra của Đức Phật để thấy Ngài đang Đản sinh ngay giây phút này, trong mỗi chúng ta! 

Nguyên Cẩn

1 Gary Gach - (2009) The Complete Idiot’s Guide to Buddhism - Alpha, Penguin Group, (USA)
2  Thích Minh Châu. ( 1995) Những lời Đức Phật dạy về hòa bình và giá trị con người. VNCPHVN 
3  Thích nữ Trí Hải - Tìm hiểu kinh Kim cương
4  Nguyễn Đăng Thục - “Tinh thần Thiền học Việt Nam”. Tập san Vạn Hạnh số 23, 1965
5  Tăng chi bộ kinh
6  Gems of Buddhist Wisdom - Bình Anson trích dịch
 (Giác Ngộ Online)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1802)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2369)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1965)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2081)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2266)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2550)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2569)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2108)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2560)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1894)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 2003)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2287)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2807)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1728)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1633)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1823)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1669)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2239)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2406)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2108)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1893)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1802)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1986)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1718)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2726)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1869)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2195)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2167)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2519)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1821)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2011)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1881)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2058)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2634)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3722)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2305)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2300)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1691)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 2005)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2341)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2337)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2173)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3137)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2152)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2546)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2060)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1995)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2204)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2508)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2076)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant