Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tĩnh Lặng Vô Ngôn

01 Tháng Bảy 201904:38(Xem: 5507)
Tĩnh Lặng Vô Ngôn

TĨNH LẶNG VÔ NGÔN

Hạnh Chi

 
Định Nghĩa Chánh Niệm

         
Bất cứ hành giả nào đọc, hay học qua kinh Duy Ma Cật, dù hiểu cạn hay sâu, ít nhất cũng có cảm nhận về cuốn kinh đại thừa này qua cái nhìn chung là “Tĩnh lặng vô ngôn. Tịch nhiên bất động”

          Quả thật, toàn bộ cuốn kinh không trang nào không phảng phất làn hương trầm Bát Nhã của chiều sâu tâm thức. Ngay cả những cuộc viếng thăm  đông đảo của hàng Bồ Tát hay cảnh rực rỡ khi thiên nữ rải hoa vẫn biểu hiện cái uyên nguyên cực kỳ tĩnh lặng của “tâm không dính cảnh, dù cảnh chẳng rời tâm”.

          Mỗi khi chợt nghĩ đến Thầy, lòng tôi lại rộn lên niềm hạnh phúc của phút sơ tâm khi học kinh Duy Ma Cật, cái sơ tâm của trẻ con khi cố tìm ra lý luận để phản bác người lớn.      

Tôi không thoải mái chút nào khi kinh trình bày một người cư sỹ trí tuệ đến mức các đại đệ tử của Phật đều không dám đến gặp. Rồi khi ngài đệ nhất trí Văn Thù Sư Lợi đồng ý đi thăm bệnh Duy Ma Cật, đối đáp cùng nhau, đến chương cuối, trưởng giả hỏi các vị Bồ Tát thế nào là vào cửa Bất Nhị thì tôi chẳng thể đồng ý với ngài Văn Thù Sư Lợi chút nào!   

bị phạt quỳ hương hết bó nhang tôi cũng không nói khác được!

          Làm sao mà sau khi nghe đủ hơn ba mươi vị Bồ Tát trả lời “Thế nào là vào cửa pháp Bất Nhị?”, đến cuối cùng, ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi trưởng giả Duy Ma Cật thì lại chỉ nhận được sự im lặng? Ấy thế mà sự im lặng đó lại được ngài Văn Thù tán thán:“Lành thay! Lành Thay! Cho đến không còn văn tựngôn thuyết mới thật là vào cửa Bất Nhị!”(**)

Tới đây, tôi đã khởi ý nghi ngài Văn Thù Sư Lợi không … công bằng cho lắm!        

Không biết vào thời mạt pháp này ngài có còn thỉnh thoảng hiện thân hành khất trên Ngũ-Đài-Sơn hay không? Nếu biết chắc ngài còn thương tưởng chúng sanhhóa hiện, tôi sẽ không quản ngại xa xôi, sẽ trèo đèo lội suối tới dẫy núi huyền bí kia, chờ gặp được ngài để bộc bạch nỗi ấm ức của mình.

          Tất nhiên, tôi chẳng bao giờ có nổi cơ hội này.

          Nhưng may quá, sau một lần nhập thất, thầy Tuệ Sỹ đã giải thoát cho tôi ra khỏi nỗi buồn tưởng là thiên thu bất tận này.

          Lần nhập thất đó Thầy đã hoàn tất “Huyền thoại Duy Ma Cật”, trong đó, ở chương “Cửa Vào Bất Nhị”, Thầy đã nhẹ nhàng đặt bút:

          “Trong đối thoại về Bất-Nhị-môn này, sự im lặng của Duy Ma Cật được nhận thức là cao nhất, là diễn tả tuyệt vời nhất về Bất Nhị. Nhưng, nhìn từ một hướng khác, nếu khôngminh giải từ Văn Thù thì sự im lặng của Duy Ma Cật trở thành vô nghĩa! Cho nên, điều vi diệu ở đây là nói lên được cái không thể nói. Trước, sự im lặng của Duy Ma Cậtdiễn đạt của Văn Thù. Sau, sự im lặng của Duy Ma Cật cũng là sự diễn đạt của Văn Thù. Cả hai, Thánh-mặc-nhiên và Thánh-ngôn-ngữ đều cùng hiển thị một thực tướng duy nhất, là thực tướng ly ngôn…” (**)

          Thì ra, trưởng giả Duy Ma Cật tuy dùng sự im lặng, nhưng cũng phải có cái hữu-tướng mới có thể trình bày được cái vô-tướng; cũng như ngài Văn Thù Sư Lợi, đã dùng ngôn-ngữ để giãi bày cái vô-ngôn.

          Chúng sanh vô minh xin sám hối cùng đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

          Con xin cảm tạ Thầy Tuệ Sỹ.

          Thầy lại vừa nhập thất.

          Không biết lần này Thầy nhập thất bao lâu nhưng tôi biết, từ nhiều thập niên, Thầy chỉ dùng bữa trưa với lưng chén cơm đạm bạc, sau đó, không gì thêm ngoài nước trà, cho đến trưa hôm sau. Ngay cả khi tứ đại bất an, chúng tôi xin Thầy dùng chút sữa thì Thầy nhẹ nhàng từ chối: “Sức khỏe tui, tui biết, các anh các chị làm sao biết được”.      

Thế là huynh đệ chúng tôi có xót xa cũng đành mượn cách trả lời vào cửa Bất Nhị của Duy Ma Cật là … im lặng!

           Lần này, tôi may mắn được Thầy giảng giải cho dăm điều thắc mắc trong kinh Trường-A-Hàm trước khi nhập thất, vì sau đó, Thầy sẽ cắt đứt mọi thông tin, chỉ có thị giả là mỗi ngày còn được tới gần thư phòng Thầy dăm phút khi đưa cơm mà thôi.

          Tôi đã về tới đường hẻm đó, đã bước lên những bực thang xi măng buốt lạnh dẫn tới hành lang heo hút đó, đã thấy căn phòng làm việc đơn sơ với chiếc võng con, bàn viết nhỏ, máy vi tính cũ kỹ và một kệ sách.

Nơi ấy, từ nhiều thập niên qua, Thầy đã là biểu tượng của “Tĩnh lặng vô ngôn. Tịch nhiên bất động”. Hoa thơm rải tới, hay bùn đất tạt vào cũng chỉ được đáp lại bằng tiếng gió lao xao thổi nhẹ qua những giò phong lan.

          Phải chăng đó là hữu-tướng hiển bày vô-tướng, là hữu-thanh truyền đạt vô-thanh; như mặt trăng tịnh nhiên bất động giữa hư không nhưng ánh trăng vẫn tỏa chiếu muôn sông, muôn suối. Nơi nào nước trong sẽ thấy trăng tỏ, nơi nào nước đục sẽ chỉ thấy trăng mờ.

          Những bài học bằng thân-giáo như vậy chẳng phải thời nào cũng có, nếu thế gian không quá đảo điên trầm thống. Chén cơm cam lộ được xông ướp bằng hương đại bi của Như Lai từ cõi Phật Hương Tích chẳng phải thời nào cũng ban phát, nếu cơ duyên không tựu thành pháp hội Yêm-la.

Khó đến thế nhưng chẳng là thất vọng vì: “Pháp-thân vốn vô tướng  nhưng lại ứng hiện theo từng hình tướng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá” (*)   

Thầy đang nhập thất.

Thị-Ngạn-Am vẫn đó, gần, thật gần.

Nhưng những gì Thầy cưu mang và ấp ủ từ am thất nhỏ bé đó, đã và đang đi xa, thật xa.

Từng đêm “Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn”(+)  đã hoàn tất những quà tặng đẹp đẽ cho đời, từ sáng tác tới dịch thuật. Đó là những trang cảo thơm Thắng Man Giảng Luận, Tô Đông Pha-Những Phương Trời Viễn Mộng, Giấc Mơ Trường Sơn, Trường-A-Hàm, Trung-A-Hàm, Tạp-A-Hàm, tuyển tập Nikàya A-Hàm, Triết Học Tánh Không, Thành Duy Thức Luận,  Ngục Trung Mị Ngữ, Huyền Thoại Duy Ma Cật, A-Tì-Đạt-Ma-Câu-Xá Tiểu Tạng Luận từ tập 1 tới tập 5, Thiền Luận Daisetz T. Suzuki quyển Trung, quyển Hạ thầy dịch và chú ….v…v..

 Mới hay, phương tiện được nhìn qua lăng kính Cư-trần-lạc-đạo có vẻ đơn giản nhưng thật ra chẳng đơn giản chút nào!

NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT.

NAM MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT.

Hạnh Chi

(Độc-Cư-Am)

(*) Tăng Duệ, tựa kinh Duy Ma Cật

(**) Huyền Thoại Duy Ma Cật, Thầy Tuệ Sỹ

(+) Thơ Thầy Tuệ Sỹ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16674)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20568)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18270)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19843)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14841)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12970)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13951)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13146)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14005)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17634)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15394)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14689)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14453)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17851)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21892)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20603)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25132)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16875)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14709)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18974)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21999)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25278)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15769)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20722)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17008)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18631)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20016)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39305)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31505)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36010)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23861)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26546)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant