Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện Chùa Chiền

07 Tháng Bảy 201902:40(Xem: 4895)
Chuyện Chùa Chiền

Chuyện Chùa Chiền

Trần Thị Nhật Hưng

  Có lần một sư cô thuyết giảng, ví von nhà chùa như một nhà thương trị bịnh tinh thần, điều này ngẫm nghĩ không hoàn toàn đúng nhưng không hẳn là sai, tùy cái nhìn của mỗi người thôi. Bởi vì cũng có nhiều người đến chùa với tâm thái bình an, muốn nghiên cứu học hỏi giáo lý nhà Phật. Hay mộ đạo, đến để hỗ trợ đạo. Cũng có người như các cụ già thích đến chùa vì thích không khí nhà chùa, làm công quả đóng góp công sức, tịnh tài, tìm khoây khỏa trong tuổi già mong qui tiên được về cõi Phật. Kẻ thì đến chùa để cầu an, cầu siêu, cầu xin đủ thứ...v.v.và.v.v...Tựu trung dù từ nhân duyên nào cũng đều là có duyên với Phật

  Riêng tôi, nếu ví nhà chùa như bịnh viện tinh thần, tôi thấy cũng có lý. Vì rõ ràng quí sư đã chẳng nói đạo Phật là đạo cứu khổ ban vui. Do vậy đến chùa quan sát kỹ sẽ thấy, cũng không thiếu người góa chồng, góa vợ, li dị, hoặc chán ngán chuyện gia đình, hay đang cô đơn, cô độc...lân la đến chùa để giải tỏa nỗi lòng tìm niềm vui. Người thì rán nghe Pháp Phật chiêm nghiệm nghiệp quả mình tạo ra rồi tụng kinh sám hối, kẻ thì kể lể với bạn đạo để trút hết bầu tâm sự  hay đôi khi trút cả đến những vị trụ trì nhờ “gỡ rối tơ lòng“. Tựu trung là tìm cách để giải tỏa nỗi khổ niềm đau.

   Có điều, không hẳn đến chùa sẽ luôn được an lạc, như bịnh nhân đến thăm bác sĩ đâu phải ai được chữa trị cũng hết bịnh đâu. Do vậy, khối người đến chùa lại chuốc thêm phiền não cho mình còn lây lan sang người khác, giống như bịnh truyền nhiễm vậy. Đôi khi còn là bịnh nan y bác sĩ bó tay, chỉ đưa về nhà nằm chờ chết. Cũng vậy, người đến chùa cầu mong an lạc, cầu sự giải thoát cho tâm hồn, nếu không tìm thấy những điều mong muốn, tự nhiên ở nhà, thế thôi. Nhưng theo tôi, người Phật tử chân chính cầu đạo, nhất là những Phật tử đang làm việc trong chùa, trước mọi khó khăn sẽ không sờn lòng, đôi khi xem nghịch cảnh là bài học để mình thử thách, tu tập, chuyển hóa địa ngục thành Niết Bàn. Nếu được như thế coi như đã đạt chánh quả ngay trên cõi đời này. Người bịnh coi như hết bịnh. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp, đứng trước ngọn núi cao, quá chênh vênh hiểm hóc không vượt qua được, hoặc trước dòng sông quá sâu, nước chảy xiết không bơi được thì tính sao đây, đành tìm lối khác mà đi, đổ cho tại “nhân duyên“, còn duyên thì hợp, hết duyên thì đi. Đức Phật có 84.000 pháp môn để tu, thôi thì, tu cách nào, đến chùa, hay tu tại gia, hay tu giữa chợ cũng đều tu được tùy theo căn cơ trình độ, sở thích của mỗi người, không ai lên án ai cả. Tục ngữ Việt Nam đã chẳng có câu:“Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa“để xác minh có ba nơi để tu, tu đâu cũng được mà.

   Trở lại việc trong chùa. Nhà chùa đa số phụ nữ đến nhiều hơn nam giới. Điều đó không ai phủ nhận. Nhiều câu hỏi đặt ra tại sao thì cũng có nhiều câu trả lời tùy theo quan điểm của mỗi người.

    Người thì cho rằng đã mang thân nữ là nghiệp nặng. Nghiệp từ kiếp nào đã thiếu tu còn gây bao lầm lỗi, nên bị đọa làm thân nữ giờ đến chùa để giải nghiệp. Có kẻ thì cho do phụ nữ nhẹ dạ dễ mê tín dị đoan bị mê hoặc bởi tôn giáo. Ngược lại, không thiếu người binh vực, đánh giá phụ nữniềm tin mạnh mẽ hơn nam giới, đến để hộ đạo, làm công quả giúp chùa, cúng dường, xây dựng, duy trì và phát triển Tam Bảo... Nói chung chín người mười ý. Nói sao cũng được hết. Nhưng một điều rõ ràng chắc chắn nhất là Đức Phật đã nhìn ra tâm tánh của phụ nữlắm chuyện“, biết rõ phụ nữ tuy cũng hữu ích cho chùa chiền, cho Phật giáo, nhưng sự hiện diện lai vãng của họ cũng... làm phiền nhà chùa không ít, đó là lý do, thời Đức Phật đã không cho phép nữ giới đi tu cho mãi khi có lời cầu xin khẩn khoản của Ngài A Nan, thị giả và là đệ tử ruột của Đức Phật, Đức Phật mới cho phép, nhưng Ngài phán rằng, để phụ nữ xen vô, giáo Pháp của Ngài sẽ trì trệ mất 500 năm!

   Lời phán của Phật thì chắc chắn không sai.

   Vậy bây giờ ta hãy nhìn xem và phân tích, chuyện các bà đến chùa đã, và đang xảy ra những gì nhé.

   Các bà đến hộ đạo, giúp chùa nhiều thứ, phải nói là rất đáng khen, đáng ngưỡng mộ. Từ hoa quả bày biện trang trí chánh điện đến khâu hậu cần lo cơm nước trong ban trai soạn, rồi dọn dẹp lau chùi, quét nhà, rửa chén, làm bánh trái phát hành tăng ngân quĩ cho nhà chùa…v.v… đều là nhờ các bà, thiếu bàn tay các bà là không xong. Tuy nhiên, bên cạnh công lao đó các bà cũng quấy đạo, quấy chùa không ít. Đức Phật cũng phải... ngán các bà, huống là quí sư ngày nay, sức đâu, thời gian đâu mà giải quyết nổi những tranh chấp, thị phi, tị nạnh, ganh ghét của các bà, chưa kể còn... chới với không ít dưới bóng dáng lẳng lơ đẩy đưa của mấy cô Thị Mầu khiến có thầy lầm đường lạc lối, đôi khi còn kéo ông thầy ra khỏi chùa đi mất đất luôn. 

   Này nhé, chỉ nội việc thương quí thầy, nhìn ông thầy dưới nhãn quan như một thần tượng, một vị Phật, không bê tha cờ bạc, rượu chè nhậu nhẹt hút sách ăn chơi đàng điếm thiếu trách nhiệm với gia đình như những ông chồng của các bà, là các bà xúm nhau thương. Nhưng nếu thương với cái trí Bát Nhã lo hộ đạo hộ chùa đem niềm an lạc đến cho mọi người thì tuyệt vời quá, nói làm gì, đàng này với cái tâm chúng sinh, các bà có chút công lao, hay cúng dường nhiều là cái ngã nâng cao, lên mặt, nghĩ chùa là của mình, ông thầy là của mình rồi  nắm giữ, cột chặt không chỉ làm khổ ông thầy còn gây thêm bao phiền não cho thiền môn nữa. 

    Nội việc chăm sóc thầy, bà nào cũng có tâm chăm lo và chỉ mong ông thầy chiếu cố. Một bát chè, chén xôi dâng đến cũng ghé mắt theo dõi ông thầy dùng phẩm vật của mình hay của người khác. Ông thầy nhắp chén chè của mình là lòng hỉ hả nở hoa. Bằng trái lại, buồn héo hắt, lần sau hết nấu luôn. Hoặc đôi khi một ly nước dâng thầy, thầy không khát giao cho bà khác uống cũng không xong. Thầy thân cận hỏi thăm, trò chuyện thân mật với ai, không với mình là lòng buồn tê tái, mặt xệ xuống chằm dằm như cái cối đá rồi bỏ chùa không thương tiếc. Thật khổ thân cho ông thầy, được thương mà… thương cái xương không còn!

    Nhưng cũng không nên đổ lỗi hoàn toàn tại quí bà. Bản chất phụ nữ là thế, nhưng cũng không phải không có cách giải quyết nếu vị sư lãnh đạo là một minh sư, cao tăng điều hành một cách khéo léo tuyệt vời thì mọi sự cũng yên thôi.

    Ngày xưa ở Trung Hoa, tương truyền vua Nghiêu nghe tiếng Trọng Hoa là người hiếu đạo biết tu thân, liền gả một lúc hai nàng con gái của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng về làm vợ Trọng Hoa để thử tài Trọng Hoa...tề gia điều khiển hai bà vợ như thế nào, trước khi trao ngai vàng cho Trọng Hoa trị quốc theo lộ trình tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trọng Hoa chính là vua Thuấn đã “tề” được hai bà, bình được thiên hạ tạo cho xã hội thái bình an lạc vang danh muôn thuở. Điều đó nói lên rằng, hễ…khiến, điều khiển được các bà trong ấm, ngoài êm thì mới mong nghĩ đến việc đại sự khác.

   Trong chùa cũng vậy, nếu vị sư, nhất là trong vị trí trụ trì không khác gì làm dâu trăm họ trước các bà mẹ chồng khó tính khó nết, đòi hỏi phải xử sự cực kỳ khéo léo, công bằng, hòa ái, nội lực thâm hậu; trước phải tu thân, hành xử đúng đắn làm gương cho người khác mới đắc nhân tâm, chẳng những yên thân mình mà còn được các bà nể trọng xúm nhau phù trợ thì không riêng nhà chùa an lạc còn giúp Phật giáo phát triển vượt bực từ tài năngtín tâm của các bà. Bởi vì, một câu nói ghi rằng  “Chúng ta cũng có thể tìm thấy Phật qua hình dáng các vị cao tăng tu hành chân chánh, giới đức tròn đầy; các vị là Trưởng tử của Như Lai, đại diện cho Phật để chúng sinh có chỗ nương tựa, qui ngưỡng; nhưng nếu là kiêu tăng phạm giới, không giữ lục hòa thì Phật sẽ ẩn, ma sẽ hiện. Các vị kiêu tăng chính là người phá Phật, hại Pháp mạnh hơn tà ma ngoại đạo nhiều lắm

    Cuối cùng, để giải quyết vấn nạn nhà chùa, để chùa được bình yên, an lạc và như là “bịnh viện tinh thần” chữa trị những nỗi khổ niềm đau thì nhà chùa cần dùng đúng thuốc do Đức Phật chế, toa thuốc mang tên Lục Hòa, trong có 6 vị:

1-      Thân hòa đồng trú: Cùng vui vẻ sinh hoạt dưới một mái chùa. 

2-      Khẩu hòa vô tránh: Thành ngữ có câu “họa tòng khẩu xuất” (họa do cái miệng mà ra), một lời nói ra “tứ mã nan truy” do vậy nói năng cẩn trọng, dùng ái ngữ nhẹ nhàng, từ tốn, hòa nhã, lịch sự, dù trái ý cũng không đưa đến tình trạng tranh cãi, hờn dỗi, nhìn nhau bằng ánh mắt gờm ghè.

3-       Ý hòa đồng duyệtMọi ý kiến đều đưa ra chia xẻ, bàn bạc trong tâm ý hòa hợp cùng lắng nghe nhau để thấu hiểu cảm thông nhau.

4-       Giới hòa đồng tuCùng tôn trọngtuân thủ những giới luật mà mình đã thệ nguyện.

5-       Kiến hòa đồng giải:Trao đổi sự hiểu biết, giải bày mọi ý kiến, kinh nghiệm trong tinh thần hòa hợp.

6-       Lợi hòa đồng chiaVui vẻ chia xẻ những quyền lợi vật chất một cách hợp lý không tổn hại đến quyền lợi chung.

 

Toàn những vị thuốc trụ sinh diệt trừ Virus mang tên tự ngã, ích kỷ, tư lợi luôn đặt cái tôi, cái của tôi trên hết để khi sinh hoạt dưới một mái chùa mới có thể sống bên nhau, chia xẻ, bàn bạc, lắng nghe, trao đổi, cảm thông và thấu hiểu nhau trong tinh thần hòa kính... “Tứ chúng đồng tu“.

   Vâng, chính thế. Tới chùa, tứ chúng đồng tu không chỉ dành cho nam, nữ cư sĩ Ưu bà Tắc, Ưu bà Di tu mà còn Tăng và Ni nữa.

   Phương thuốc thần dược của Đức Phật đã có sẵn, là con Phật, chúng ta kính cẩn tôn trọng, khi chưa hết bịnh, thì cứ sắc mãi uống hoài, dù thuốc có đắng, khó nuốt nhưng “thuốc đắng mới dã được tật” đã đúng thuốc thì chắc chắn thế nào cũng khỏi. 

Nào, chúng ta cùng tứ chúng đồng tu theo toa thuốc thần diệu có sẵn của Phật nhé. 

Cám ơn các bạn. Kính chúc các bạn thân tâm thường an lạc.

 

Trần Thị Nhật Hưng

(Khai bút đầu năm 2018)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16695)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24171)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20592)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18839)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21335)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18288)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19854)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14854)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12979)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13971)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13158)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14017)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17646)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15413)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14710)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14463)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17870)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21911)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19466)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20609)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25148)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16882)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14729)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19000)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22013)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20639)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25297)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15775)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15783)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20733)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17019)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18643)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20030)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39321)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31521)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30670)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36033)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23881)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26556)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant