Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Lý Nhân Minh Là Khoa Học Của Mọi Luận Lý

03 Tháng Tám 201911:13(Xem: 5648)
Luận Lý Nhân Minh Là Khoa Học Của Mọi Luận Lý

Luận Lý Nhân Minh Là Khoa Học Của Mọi Luận Lý

Thích Trung Định


Dây Trói Bền Chắc Nhất


Nhân minh
là môn luận lý học Phật giáo được các Tổ sư sáng lập nhằm mục đích làm sáng tỏ chân lý thực tại. Lập luận của nhân minh rất chắc thật và xác đáng. Thực ra, luận lý Nhân minh đã có từ thời Đức Phật. Trong những lời dạy, đức Phật cũng đã sử dụng phương pháp lý luận để trình bày. Với mục đích là khai mở tâm thức của chúng sanh có được những nhận thức đúng đắn, thánh thiện. Và để chuyển hoá mọi người từ một nhận thức lệch lạc, sai lầm đến một nhận thức đúng đắn chơn chánh; đi từ nhận thức tư duy hữu ngã sang nhận thức tư duy vô ngã. Sự thật đây là một điều hết sức cam go cho những ai thực hành con đường này. Bởi đây là một cuộc cách mạng lớn trong nhận thức tư duy mà từ lâu chúng ta vẫn thường biện minh theo thói thường tình.

Từ những lời dạy của Đức Phật mang tính chất lý luận thực tiễn, sau này chư Tổ đã hệ thống lại, hình thành nên một phương pháp hẳn hoi, có lập luận xác đáng, gọi là Nhân minh học Phật giáo. Mục tiêu của Nhân minh nhắm đến một đối tượng chính yếu đó là con người. Luận lý để tìm phương cách giải quyết các vấn đề cho con người một cách thấu triệt, đem lại an lạc hạnh phúc cho họ. Những luận thức mà Nhân minh thiết lập rất chặt chẽ, có khoa học, nhưng lại mang tính thiết thực cho nhận thức tư duy của con người.

Lịch sử hình thành: Nhân minh vốn đã có từ rất sớm trong lich sử của Ấn độ. Trong Hindu giáo và trong trường phái Nyaya, mà nổi bật nhất đó là ngài Túc Mục. Trong lời dạy của Đức Phật vẫn mang đầy tính chất luận lý biện minh theo kiểu lập luận của Nhân minh. Sau khi Đức Phật diệt độ, Nhân minh học bắt đầu manh nha từ thời Ngài Long Thọ (Nāgārjuna), mà chủ đích vẫn không ngoài vấn đề phá tà hiển chánh, thông qua các biện chứng hùng hồn của mình. Bằng con đường trung đạo, thông qua giáo lý Bát bất, mà ở Hồi tránh luận và Phương tiện tâm luận đã nêu lên cho thấy luận lý nhân minh hiện diện trong đó. Nhưng vào giai đoạn này, Nhân minh vẫn chưa mấy ai chú trọng bởi một lý do tế nhị đó là giai đoạn chuyển từ Phật giáo Nguyên thủy sang Phật giáo Phát triển. Đến thời ngài Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubhandhu), luận lý Nhân minh học Phật giáo có phần khởi sắc. Nhưng cũng rất khiêm tốn, chỉ vỏn vẹn được 15 bộ luận đề cập đến lĩnh vực này. Ngài Asanga soạn Hiển dương thánh giáo luận. Trong đó tác giả đầu tiên đã giới thiệu đến “Ngũ chi tác pháp” làm cơ sở vững chắc cho học thuyết luận lý Nhân minh của Phật giáo sau này. Đến ngài Thế Thân, bậc thầy nổi tiếng về luận lý học đã trước tác Như thật luận, Biện trung biên luận, v.v. Trong đó Như thật luận đóng một vai trò quan trọng trong phương thức luận lý và lập cước vững chắc cho luận lý học Phật giáo.

            Tiếp tục là ngài Trần Na (Dignāga), nhờ kế thừa các phương thức luận lý của các bậc thầy đi trước, do đó Ngài trước tác bộ Nhân minh chánh lý môn luận bổn và Nhân minh chánh lý môn luận. Cả hai bộ luận này có nghĩa lý thâm áo, sâu xa khó hiểu nên học trò là Ngài Thiên Chủ đã nỗ lực hệ thống hoá lại hai bộ luận của thầy mình và biên soạn thành bộ Nhân minh nhập chánh lý môn luận. Đây là một bộ luận rất nổi tiếngvô cùng quan trọng trong luận lý học Phật giáo. Về sau các nhà dịch giả nương tựa vào đây để luận bàn về nghĩa lý.[1] Trong đó các luận sư của Trung Hoa đã viết các luận sớ về Nhân minh rất nổi tiếng như Ngài Khuy Cơ đệ tử của Ngài Huyền Trang v.v

  Luận lý khoa học: Nói đến lý luận là nói đến sự lập luận tranh biện về một vấn đề. Trong đó phải có người biện luận (chủ thể) và đối tượng biện luận (khách thể). Có nhiều hình thức, cấp độ biện luận khác nhau tùy vào chủ đích và từng lãnh vực riêng biệt. Trong khi tranh luận thì bao giờ người biện luận cũng nêu lên một chủ đề gì đó rồi đưa ra, muốn giới thiệu cho người khác biết. Sau đó muốn chủ đề của mình đưa ra được người ta chấp nhận thì phải có lập luận, biện minh để chủ đề được đứng vững. Trong cuộc sống thì có vô vàn vấn đề phải tranh luận. Từ cái nhỏ nhặt nhất cho đến cái to lớn đều phải thông qua hình thức biện luận để các vấn đề được sáng tỏ. Phan Khôi, trong bài ‘Luận lý học cai trị cả một sự đời’ đã nói rằng’: “Luận lý là một khoa học dạy cho ta theo con đường chính đángTrăm sự ở đời cũng cần đến luận lý khoa học, luận lý khoa học cai trị cả một sự đời”.[2]

 Khoa học, bản chất là duy lý, đặt trên nền tảng quan sát, lý luận, chứng minh, kiểm nghiệm. Quan sát đòi hỏi phải qua trung gian ngũ quan: mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, tay sờ. Lý luận kiểm nghiệm thì cần khả năng tư duy trí tuệ. Tùy theo mức độ phát triển và tùy ngành khoa học, vai trò của ngũ quantrí não có những tầm quan trọng khác nhau và tuỳ theo điều kiện khác nhau. Trong khoa học thực nghiệm, ở những giai đoạn ban đầu, quan sát bằng ngũ quan đóng vai trò chủ yếu trong những phát kiến. Archimède tìm ra sức đẩy của nước, Newton tìm ra trọng lực, Franklin tìm ra điện trong sấm chớp… Tất cả đều do quan sát, suy nghiệm rồi bắt tay vào thực hiện bằng các thí nghiệm để kiểm chứng. Trong khoa học thuần lý, trí não đóng vai trò chủ yếu, đưa ra giả thiết lý luận rồi kiểm nghiệm, thực hiện. Dù là khởi đầu bằng quan sát, hay khởi đầu bằng lý luận thì yếu tính của chân lý khoa học vẫn là sự tuyệt đối khách quan, chứng minh được, kiểm nghiệm được, thực hiện được. “Mục tiêu của khoa học là tìm hiểu về thế giơi hiện tượng. Trọng tâm chính yếu của nó là những kiến thức về vũ trụ vật lý, được xem như mang tính khách quan và có thể xác định số lượng, cũng như nhằm đạt đến việc kiểm soát tự nhiên.”[3]

 Khoa học là luận lý dựa trên tri thức thực tại. Trong đó tri giác của con người đóng vai trò chính yếu. Khoa học luôn hướng đến thế giới khách quan, tìm hiểu về các sự vật hiện tượng. Có những lúc tri thức khoa học cũng đã mò mẫm đến đằng sau bức màn của thế giới thực tại. Họ vẫn cố nổ lực tìm cách vén bức màn bí ẩn đó lên, đi sâu vào thế giới đó để tìm hiểu về nguồn gốc của con ngườivũ trụ.Tuy nhiên, những giá trị thực tiễn mà luận lý khoa học mang lại có chừng mực trong một giai đoạn nào đó nhất định. Cái mới luôn phủ định cái cũ để tồn tại và phát triển. Tất cả đều cùng nằm trong một dòng thác của quy luật bảo tồnđào thải. Tri thức nào phù hợp với thực tại cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu của đời sống con người thì tri thức đó đứng vững tồn tại cùng thời đại.

            Luận lý trong Nhân minh: Mục dích của việc tu Phật cốt là để thực hành Phật hạnh, làm sáng tỏ nguồn tuệ giác trong tâm thức của mỗi một hành giả, nhắm chuyển mê khai ngộ, chứng nhập Phật trí[4], chứ không phải luận lý theo kiểu tranh luận hơn thua, so tài hùng biện. “Thánh đệ tử tạo luận không phải vì hơn thua, lợi dưỡng, hay vì danh vọng, mà chỉ muốn làm rõ các tướng thiện ác, đúng sai. Đời nếu không có luận thì mê vọng lan tràn, bị cuồng hoặc bởi xảo biện tà trí, mà khởi sinh các pháp bất thiện, phải chịu quả báo luân hồi trong các cõi. Nếu tạo luận thời có thể tự phân biệt được các tướng thiện ác, đúng sai không còn bị người tà kiến làm cho mê hoặc, chướng ngại gì nữa.”[5] Luận lý trong Phật giáo vẫn không ngoài mục đích là làm sáng tỏ các vấn đề trong kinh điển, giúp cho con người hiểu đúng, hành đúng theo lời Phật dạy. Mục đích của Nhân minh luận duy nhấtsự thể nhập vào chánh lý. Sở dĩ như vậy mà sau này ngài Thiên Chủ đã căn cứ trên các luận thức về Nhân minh của các bậc tiền bối để tạo thành bộ luận có tên là “Nhân minh nhập chánh lý môn luận”. Chánh lý là lý luận chân chính dẫn dắt hành giả đến chánh tri kiến, như lý tác ý. Tức là ‘lý tánh chơn chánh của các pháp’. Căn cứ trên giới định tuệ để làm tôn chỉ chứng đắcthể nhập vào cảnh giới Niết bàn. Trong việc thực hành hạnh nguyện tự độ, độ tha thì trong Nhân minh phải dựa vào trí – ngôn – nghĩa để làm tôn chỉ. Nếu phi trí, ngôn, nghĩa thì không thể nhập vào chánh lý được. Cho nên trên căn bản phá tà hiển chánh chiết phục tà thuyết, phương tiện quyền xảo, Nhân minh luận đã khéo vận dụng con đường trung đạo, đập vỡ khái niệm nhị biên, dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Do vậy từ khi Nhân minh luận ra đời đã đóng góp một phần rất lớn trong công việc xiển dương giáo pháp của đức Phật. Giúp cho người học Phật phá trừ được sự mê vọng của mọi tà thuyết.

Nhân minh ban đầu gồm có năm chi phần, gọi là Ngũ chi tác pháp, đó là: Tôn, nhân, dụ, hiệp, kết. Đến thời ngài Trần Na (dignāga) nhận thấy hai phần hiệp và kết không quan trọng nên cắt giảm, chỉ còn lại tôn, nhân, dụ gọi là Tam chi tác pháp.

Phần thứ nhất của Tam chi tác pháp là tôn. Tôn tức là tôn chỉ, là chủ trương được nêu lên là tiêu đích tranh luận của hai bên lập luận và địch luận. Ví dụ như nói Âm thanhvô thường, trong đó danh từ âm thanh gọi là tiền trần, còn vô thườnghậu trần. Ngoài ra Tôn trong Nhân minh còn được phân tích ra rất nhiều vấn đề như tôn y và tôn thể v.v để tuỳ theo đó mà lập tôn cho chính xác.

Phần thứ hai là nhân. Nhân là nguyên nhân. Nếu một nguyên nhân đúng thì phải hoàn toàn quan hệ với tính cách của tôn, phải có tính cách đồng phẩm mà không có dị phẩm. Nhân thì phải có sanh nhân, tức là trí tuệ của đối phương có thể lĩnh hội liễu giải được; liễu nhân là phải đầy đủ hai tính cách ấy.

Phần thứ ba là dụ. Dụ tức là dẫn dụ, ví dụ viện dẫn ra cho địch luận hiểu rỏ về Tôn và Nhân của mình đưa ra. Trong Dụ gồm có đồng Dụdị Dụ. Ví dụ:

Tôn: Âm thanhvô thường

Nhân: Vì do sự tác động mà có

Dụ: Ví như cái bình.[6]

Nhân minh là khoa học luận lý: Với phương thức tam chi tác pháp. Một cấu trúc lý luận hợp lý, thực tiễn và đầy đủ. Nhân minh luận Phật giáo nghiễm nhiên trở thành bộ môn khoa học luận lý. Trong Nhân minh, việc phân chia ra nhiều thứ mục như: Trí- ngôn- nghĩa hay chơn và tợ trong đó có chơn năng lập, tợ năng lập; chơn năng phá, tợ năng phá là mục đích để cho lý luận đưa ra được xác đáng, đúng với thực tiễn và làm thuyết phục kẻ đối biện một cách tuyệt đối. Nhờ vậy mà trong vấn đề lập cước của Nhân minh không phải bị sai lầm, mắc phải lỗi tương vi. Trong Nhân minh còn có cách phòng nạn. Người lập luận cần phải nắm rõ các phương thức phòng nạn để khi ra đối biện khỏi phải nao núng đối với kẻ địch luận.Theo phương pháp luận này, thì trước khi lập tôn chúng ta cần phải rà soát thật kỹ lưỡng vấn đề mà mình muốn đưa ra. Cho nên trước khi lập luận thì cần phải minh tường Thể và nghĩa của tất cả các pháp.[7] Nếu chúng ta nắm vững được các tính chất về thể và nghĩa một cách thông suốt thì khi lập luận không phải bâng khuâng do dự trước bất kỳ một kẻ đối biện nào cả. Với Nhân minh hiểu rõ Thể và nghĩa của các pháp để ứng dụng vào thực tiễn, thì phương thức lập luận càng rõ ràngchính xác. Tuy nhiên khi sử dụng Nhân minh thì cần phải tuỳ phương, tuỳ thời cho thích hợp. Cần phải hiểu rõ được ngôn ngữ, văn hoá của từng địa phương xứ sở, hoặc tầm thế giới với thể và nghĩa được quảng bá rộng rãi thì việc ứng dụng Nhân minh hiệu quả và mang lại lợi lạc rất nhiều cho mọi người. Vì vậy khi dùng Nhân minh phải xuyên qua trí –ngôn- nghĩa. Phân biệt được hữu pháp và pháp, sở biệt và năng biệt, tự tánh và sai biệt, thậm chí phải rõ thế nào là tiền trần và hậu trần, tôn y và tôn thể như thế nào, thì việc lập Tôn, Nhân, Dụ không bị phản bác, đả phá. Được vậy thì phương thức lập luận mới phù hợp với khoa học luận lý và đúng với chánh lý của Nhân minh.[8]

Luận lý trong nhân minh quả thực là một luận lý khoa học. Bởi vì tranh luận này nhắm đến một mục đích hẳn hoi, có logic, có luận lý xác đáng, chứ không phải luận bàn một vấn đề mà không có lối về cụ thể, mù mờ. Vì sự tranh luậnchủ đích dẫn đến việc làm sáng tỏ một vấn đề căn bản của con người, hướng đến thánh trí nên việc tranh luận trong Nhân minh không làm khổ đau, hạ nhục kẻ đối biện, lại càng không phải kiểu tranh luậnmiệng lưỡi đao búaphi nhân bản, phi khoa học. Sự tranh luận này dần dần tiến đến đời sống tri thức thánh thiện, có giáo dục, lấy chuẩn mức đạo đức bậc thánh làm tiêu chuẩn, tôn trọng sự sống của mọi người như mình. Lý luận trong sáng minh triết, thánh thiện giải thoát thì đó là luận lý khoa học.

Tranh luận có khoa học phải khế cơ và khế lý, nhu nhuyến trong tương tác, cương nghị trong quyết định. Đức Thế Tôn là bậc thầy của những bậc thầy trong việc tranh luận này. Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy thế nào là phương thức tranh luận nhu nhuyến trong tương tác và cương nghị trong quyết định. Nhờ vậy mà mọi luận lý trong Phật giáo đưa đến sự liễu ngộ, thấu suốt, minh tường.

Luận lý Nhân minh là khoa học của mọi khoa học: Trong luận lý học phương Tây tất cả đều dựa trên căn bản của kiểm nghiệm thực tiễn thông qua các dụng cụ khoa học. Tuy nhiên luận lý học của các khoa học vẫn không thể đi sâu và tường tận mọi ngõ ngách của tâm lý. Có chăng cũng chỉ là bề mặt bên ngoài của tri thức thường nghiệm, lượng đoán vấn đề theo kiểu mô phỏng. Còn luận lý trong Nhân minh như trên đã nói, đó là một luận lý khoa học, có logic, có lập luận, có dẫn dụ để minh chứng cho vấn đề đưa ra (Tôn) cụ thể hẳn hoi. Luận lý trong Nhân minh cốt lõi vẫn là xoay quanh về con người, giải quyết các vấn đề về con người. Không những giúp cho con người có thêm tri thức về nhận thức luận cũng như phương pháp luận, mà còn tháo gở được các bế tắc về kiếp sinh tồn cho con người. Đưa con người trở về với tự tánh trạm nhiên thanh tịnh của mình. Như vậy, luận lý trong Nhân minh đáp ứng đủ cả hai mặt: vừa có phương thức lập luận chắc chắn, bài bản đúng với thực tiễn; lại vừa giúp cho con người có hướng giải quyết về các vấn đề vướng mắc nội tâm. Đưa đến sự nhận thức đúng về thế giới ngoại tại cũng như nội tại một cách đầy đủ, rõ ràng. Nếu chỉ nói riêng về phương thức luận lý không thôi cũng đủ vượt hơn phương thức luận lý khoa học. Đều này sẽ trình bày rõ ở dưới đây qua Tam chi tác pháp của Nhân minhTam đoạn luận của Aristotle.

 Tất cả luận lý đều nhằm mục đích tự ngộngộ tha. Tam đoạn luận của Aristotle là pháp thức suy tư, chú trọng ở chỗ đúng sai của tư duy suy lý. Lấy nguyên lý chung đã được hiểu rõ diễn dịch suy định để hiểu đến bộ phận riêng, mục đíchtự ngộ. Còn Nhân minh là luận thức biện luận, chú ý ở chỗ đúng sai của biện luận nhằm mục đích ngộ tha. Muốn ngộ tha phải nhờ đến biện luận, nhưng nếu biện luận không có phép tắc thì chỉ tạo ra sự hiểu biết sai lầm cho người nghe, chứ không thể ngộ tha được. Do mục đích ngộ tha đó, Nhân minh rất chú trọng chỗ đúng sai trong pháp biện luận Lập và Phá.

Theo Nhân minh, người lập luận nêu ra chủ trương để tranh luận với người khác, nên sự đúng sai không phải chỉ do mình quyết định mà còn do người đối luận và người làm chứng quyết định. Thế nên, muốn lập luận trước phải dùng hiện lượng trí và tỷ lượng trí để hiểu rõ sự lý, hiểu rõ nguyên nhân kết quả và hiểu rõ cách dùng từ, phép lập luận. Nghĩa là trước phải có trí tự ngộ rồi sau mới lập luận để ngộ tha. Nếu trước không tự ngộ thì khó có thể đạt được mục đích ngộ tha. Trí hiện lượng và trí tỷ lượng là hai khả năng hiểu biết vừa trực tiếp vừa kinh nghiệm suy lý, vừa cảm tính vừa lý tính. Luận lý Nhân minh được xây dựng trên trí hiện lượng và trí tỷ lượng nên có thể đưa người nghe đi xa, hiểu thấu chỗ đích thực của sự vật, chứ không bị cục hạn trong suy lý trừu tượng như Tam đoạn luận hay Biện chứng pháp Tây phương. Triết gia Đức hiện đại Karl Jaspers đã nhận định rằng biện chứng pháp của Hegel là một thứ biện chứng pháp của tư duy, còn biện chứng pháp của Đông phươngbiện chứng pháp của kinh nghiệm hiện thực.

            Để sáng tỏ hơn chúng ta thử so sánh Nhân minh với luận lý học Aristote. Cả hai đều là luận lý, nhưng vì mục đích khác nhau nên việc sử dụng luận thức của Nhân minh và luận lý học Aristote có nhiều điểm bất đồng. Trong luận lý học Aristote có Tam đoạn luận gồm: đại tiền đề, tiểu tiền đề, và đoán án.

            Ví dụ:

Đại tiền đề: Tất cả người Hà Nội là người Việt Nam
Tiểu tiền đề: Ông Minh là người Hà Nội
Đoán án: Vậy ông Minh là người Việt Nam

Tam đoạn luận vẫn chủ yếu là ở chỗ đoán án, suy lý thuần tuý. Còn tam chi tác pháp của Nhân minh: Tôn, nhân, dụ chủ ở chỗ luận chứng thực tế. Tam đoạn luận phát xuất từ yêu cầu học vấn thuần tuý của mọi người. Còn Nhân minh chủ ở luận chứng đôi bên để thuyết phục người khác thừa nhận điều mình đã biết được do suy lý. Nên Nhân minh bao gồm cả ba diểm dưới đây.

- Điều kiện nội tại dẫn đến tri thức.

- Phát biểu tri thức thông qua luận chứng trên pháp thức biện luận.

- Luận chứng biến thành điều kiện ngoại tại cho sự tranh luận đôi bên.[9]

            Tam đoạn luận pháp (syllogisme) của luận lý học phương Tây là một pháp diễn dịch đoán án. Còn tam chi tác pháp của Nhân minh là pháp thức chứng minh. Sự diễn dịch của tam đoạn luận dựa vào thứ tự để vận dụng tư tưởng để suy lý. Trước nêu ra đại tiền đề, tiểu tiền đề, sau đó mới đưa ra đoán án. Như vậy, sự suy tưởng này chỉ một mặt thuần tý trên những cái lớn nêu ra trước từ đó làm cơ sở đoán án theo. Nhân minh là pháp thức biện luận qua ngôn ngữ để thuyết phục người khác. Theo Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh thì: Tôn của Nhân minh ý nghĩa tương đương với đoán án của tam đoạn luận; Nhân tương đương với tiểu tiền đề và Dụ tương đương với đại tiền đề. Nhưng Dụ trong Nhân minh bao gồm cả dụ thể và dụ y; đồng dụdị dụ. Trong lúc đó đại tiền đề của Tam đoạn luận chỉ tương đương với dụ thể của Nhân minh luận mà thôi. Vì vậy trong việc lập luận của tam chi tác pháp không được hoàn bị để thuyết phục kẻ đối biện.

            Tam đoạn luận lấy sự đúng đắn làm mục đích, còn tam chi tác pháp lấy sự biện luận thắng lợi làm mục đích. Tam đoạn luậnhình thức biểu thị nguyên lý trừu tượng, chứ không thực dụng ngay nơi bản thân luận thức. Nên tam đoạn luận cốt yếu lấy sự kiểm tra tư duy của mình đúng hay sai làm mục đích, còn Nhân minh thì lợi dụng chính luận thức để quyết định sự thắng bại của luận trường.[10] Khi dùng Nhân minh thường giả định có người đối biện đang ở trước mặt mình để tranh luận, nên tam chi tác pháp của Nhân minh là một công cụ thật dụng để biện luận chứ không phải là luận lý hình thức. Ở tam đoạn luận nói A là A chứ không thể phi A được, vì chân lý luôn nằm về một phía. Nhưng ở Nhân minh nếu luận thức đúng đắn thì bên này chủ trương A là A và bên kia chủ trương A không phải là A cũng được. Vì chân lý không nằm về một phía. Luận lý này theo Nhân minh thì mắc phải lỗi “tương vi”. Nhân minhtính cách quy nạp. Tam đoạn luận là sự diễn dịch. Nhân minh thiên về phép quy nạp, tức chỉ cho dụ y trong tam chi tác pháp mà luận lý học Tây phương không có. Dụ y bao gồm cả đồng dụdị dụ, đều này làm cho lập luận của Nhân minh có cơ sở minh chứng cụ thể hơn, xác đáng hơn. Và điều quan trọng là đối phương nhân đây mà hiểu rõ thêm về sự việc đang tranh biện.

            Như vậy về phương thức luận lý, Nhân minh luận có nhiều phương pháp tối ưu hơn luận lý học phương Tây. Nhờ thông hiểu được thể và nghĩa của các pháp nên phương thức luận lý không bó buộc trong hạn cuộc của lý luận ngôn ngữ suông, hay hình thức hời hợt. Không bị đóng khung trong một hình thái cố định cứng nhắc. Thông qua Hiện lượng trí và Tỷ lượng trí có thể thấu suốt được tường tận các pháp là khổ, vô thường, vô ngã. Thực tướng các pháp là vô tướng. Nhìn các pháp trong mọi hình thái không khái niệm xơ cứng, chúng luôn vận động, biến chuyển trôi đi trong một chuỗi dài nhân duyên tương tác. Qua Hiện lượng trí và Tỷ lượng trí, có thể thấy A không phải cố định là A nữa. Mà A có thể là phi A. Như trong phủ định biện chứng của kinh Kim Cang, A phi A đích thị là A: “Thế giới tức phi thế giới thị danh thế giới, vi trần tức phi vi trần thị danh vi trần”. Phủ định biện chứng của Kim Cang rất hoàn thiện, đến nỗi Tam đoạn thức của Hêghen phát hiện mới sau này có thể là một phiên bản mới của nó.[11]Phủ định biện chứng này có thành tựu rất giá trị về phương pháp luận và nhận thức luận. Nó có khả năng đánh thức tuệ giác, giải phóng tâm thức con người ra khỏi những ảo tưởng sai lầm trong quá trình nhận thức thực tại. Thấy được thể và nghĩa của các pháp là thấy được không tánh của các pháp. Đừng xem vi trần là nhỏ nhất, là hữu thể cố định. Nhỏ như vi trần, lớn như thế giới, Kim Cang đều phủ định. Phủ định triệt tiêu, để thấy được rằng tất cả các pháp là duyên sinh, vô tướng, hiện hữu trong một chuỗi tổ hợp tương quan tương duyên với nhau. Thông qua tuệ giác nhận thức được các pháp bằng sự: “Nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải”. Nhờ vậy mà không bị lẫn lộn giữa pháp này với pháp khác, tường tận minh bạch trong từng chủng loại. Từ đó áp dụng vào trong Nhân minh vừa rất khoa học lại vượt cả khoa học về phương thức luận lý. Bertrand Russell, nhà triết học và toán học nổi tiếng hoàn cầu trong cuốn “Lịch Sử Triết Học Tây Phương”đã viết: “Phật Giáo là một tổ hợp của triết lý suy cứu và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ phương pháp khoa học và theo phương pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật giáo còn tiếp tục tiến xa hơn khoa học nơi khoa học không thể tiến thêm vì khoa học bị giới hạn bởi những dụng cụ vật lý”[12]

Thành ra, nếu cuộc sinh tồn của con người trên thế giới chỉ đơn thuần trong vật chất thì luận lý khoa học vẫn là chỗ̉ tựa vững vàng cho họ. Nhưng nếu con người muốn bình ổn trên hai phương diện vật chấttinh thần thì phải cần đến lý luận trong Nhân minh.

 

Ghi chú:

[1] Xem Thích Kiên Định, Tài liệu Nhân Minh, Học viện PG VN Tại Huế, tr.5-7.

[2] Phan Khôi, Trung lập Sài gòn, 1930.

[3] Trịnh Xuân Thuận, Khoa học và Phật giáo trước ngã tư đường, www. Khoa học.net

[4] Thích Thiện Siêu, Lối vào Nhân minh học, Nxb Tôn giáo, 2000,tr 3.

[5] Phương tiện tâm luận, Sdd tr.4

[6] Viện dẫn HT. Thích Nhất Hạnh, Đông phương luận lý học, 2000, tr 83-104

[7] Opcit,

[8] ibid, tr. 34-35.

[9] Opcit,

[10] Sđd,

[11] Đoàn Văn An, Tìm hiểu  tư tưởng triết học tánh không trong kinh Kim cang, tr. 63

[12] Sđd, tr 53.

Thích Trung Định 

Tạp chí Văn hóa, số 325

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4435)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3461)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
(Xem: 4461)
Ấn Độ có nhân vật huyền thoại là Duy-ma-cật; Trung Quốccư sĩ Bàng Uẩn; Việt Nam có Thượng Sỹ Tuệ Trung.
(Xem: 3403)
Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, bắt đầu Vũ Kỳ An Cư (Vassavāsa) từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 4571)
Mong rằng quý vị có thể tìm được những thông tin hữu ích để giúp mình có chọn lựa tốt trong việc ăn uốngcách sống để duy trì hoặc cải thiện sức khỏe của mình.
(Xem: 3556)
Trước tiên muốn hiểu về vấn đề này, chúng ta phải biết rõ, tin sâu và chấp nhận thuyết “nhân quả, luân hồi” !
(Xem: 3373)
Cơn dịch Coronavirus vẫn tiếp tục hoành hành khắp nơi, đã gần hai năm rồi nhưng chưa thấy có dấu hiệu nó suy yếuchấm dứt, thậm chí ngược lại, nó còn sinh sản ra những chủng mới nguy hiểm hơn.
(Xem: 3858)
Sách dày 572 trang kể cả phần tiếng Anh. Riêng phần tiếng Việt bắt đầu từ trang 1 đến trang 272 và phần tiếng Anh bắt đầu từ trang 277 đến cuối sách. Sách do Phật Việt Tùng Thư tại Hoa Kỳ xuất bản lần thứ nhất năm 2021
(Xem: 3164)
Đọc tiểu sử của Hòa Thượng Tuệ Sỹ để chúng ta biết rằng Ngài là một bậc Vô Sư Trí, tự tu học, nhưng biết rất nhiều sinh ngữ như: Anh, Pháp, Đức và các cổ ngữ như: tiếng Phạn, Pali, Tây Tạng v.v…
(Xem: 3510)
Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo.
(Xem: 3494)
Trong suốt những năm tháng hoằng pháp độ sanh Đức Phật luôn chú trọng đến mục đích chính là giải thoát con người ra khỏi ...
(Xem: 3460)
Với tâm kiêu ngạo, tự cao tự đại mà nói nhiều lại càng nguy hiểm hơn. Điều mà vị Tỳ-kheo vô sự cần thể hiện là bớt nói lại và nghe nhiều lên.
(Xem: 3633)
Đức Phật dạy “Nhất thiết duy tâm tạo” hay “Tâm dẫn đầu các pháp”, tâm ý quyết định kết quả của hành vi con người.
(Xem: 3309)
“Thiền sư Thường Chiếu (?-1203), thế hệ Thứ Mười Hai, thiền phái Vô Ngôn Thông.
(Xem: 4174)
Vì muốn tạo sự thanh thản cho chư Tôn Đức Tăng Ni và quý Phật Tử Học Viên trong thời điểm căng thẳng của Covid-19, cho nên Giáo Hội quyết định chọn 3 ngày cuối của 2 tuần lễ và 3 ngày cuối tuần lễ thứ nhất là ngày 9, 10, 11/07/2021...
(Xem: 3758)
Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
(Xem: 3569)
“Phật tánh là Như Lai tạng” (phẩm Như Lai tánh). Tạng có nghĩa là bao trùm chứa giữ tất cả chúng sanh và muôn sự muôn vật, tất cả hiện hữu thanh tịnhbất tịnh.
(Xem: 3589)
Đừng vấn vương quá khứvọng tưởng tương lai Quá khứ đã qua rồi Ngày mai còn chưa tới
(Xem: 3925)
Chữ nghiệp trong nhà Phật nói, ý nghĩa của nó rất sâu rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải đáp một cách đại khái sơ lược thôi.
(Xem: 3296)
Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: khế lý và khế cơ.
(Xem: 3442)
Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà...
(Xem: 3276)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu
(Xem: 5488)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 3619)
Vận mạng của một thực thể đi qua trong nhận thức được giới hạn ở hai đầu sinh và diệt, đoạn và thường của không gianthời gian
(Xem: 3830)
Trong bài phát biểu của Ngài trước đám đông đến từ Tây Tạng vào ngày 27 tháng 3 năm 2006 vào cuối buổi thuyết giảng
(Xem: 3501)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3574)
Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 3770)
Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nhắc đến chữ Tâm trong đời sống, coi đó như một phẩm chất đạo đức, một yếu tố ...
(Xem: 3507)
Mỗi năm, khi mùa mưa đến, chư Tăng Ni thường thu xếp mọi duyên để tập trung về một trụ xứ nhằm thực hiện phận sự an cư.
(Xem: 3900)
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
(Xem: 3861)
Từ xưa đến nay, nhiều người cho rằng, Đạo Phật chuyên nói về những điều cao siêu huyền bí, rất khó để một con người bình thường thực hành theo.
(Xem: 3645)
Phật giáo Nam tông Theravāda tuy không chú trọng về lễ nghi, cúng bái hoặc sám tụng nhưng trong các nghi lễ Phật giáo thì...
(Xem: 3822)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập”
(Xem: 3534)
Lắng nghe và thấu hiểu là hai chất liệu vô cùng cần thiết để hiến dâng cho đời, có khả năng xóa đi những nỗi khổ niềm đau
(Xem: 4142)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn.
(Xem: 3691)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra...
(Xem: 4105)
Có hôm nghe một trí thức Việt Nam cho rằng, Phật giáo xem cuộc đời sanh đó, tử đó, thật chẳng có ý nghĩa gì. Mọi sự mọi vật trên thế gian trong cái nhìn của đạo Phật, đều là huyển, ảo.
(Xem: 3519)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa.
(Xem: 3387)
Đạo Phật ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ và trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, vẫn phát triển rực rỡ đến ngày nay.
(Xem: 3766)
Theo quan điểm Phật Giáo, tâm của một người bình thường thì yếu đuối và bị lệch lạc bởi những ảo tưởng và nỗi khổ mà họ chất chứa bên trong.
(Xem: 3702)
’Khi một ngôi sao đốt cháy hết nhiên liệu, nó có thể bắt đầu quá trình suy sụp.
(Xem: 4245)
Trong cuộc sống, chúng ta thường mong muốn có được hạnh phúc và tránh né sự hiện hữu của khổ đau đến với mình.
(Xem: 3982)
Phật pháp có nhiều pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều căn cơ, hoàn cảnh khác nhau.
(Xem: 3492)
Dưới ánh mặt trời, mọi ảo tượng, ảo ảnh đều tan biến. Mọi thứ đều hiển lộ. Không gì khuất tất. Không gì có thể gợi lên sự hoài nghi, mộng tưởng.
(Xem: 3477)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thậtsự thật thứ nhất là "Khổ đau".
(Xem: 3500)
Thiền sư Pháp Loa đã kế thừa và để lại di sản lớn cho thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung.
(Xem: 3107)
Trong kỳ Đại Hội Khoáng Đại kỳ II lần nầy chúng con tôi) được phép trình bày với quý Ngài và quý vị một đề tài có liên quan đến sự tu học
(Xem: 3253)
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâmĐại Bồ tát được đầy đủ Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật.
(Xem: 4605)
Thời đại bây giờ hầu như con người cứ bị xoáy vào cơn lốc của cuộc sống một cách mãnh liệt, thế nên rất nhiều người cảm thấy bức bối...
(Xem: 3964)
Theo Kim Cang Thừa, con đường nhanh chóng để tỉnh thức là nhìn thẳng vào tâm của chính bạn và nhận ra bản tánh thật của tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant