Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giải Thoát Qua Cái Thấy

25 Tháng Chín 201906:18(Xem: 5769)
Giải Thoát Qua Cái Thấy

GIẢI THOÁT QUA CÁI THẤY

Nguyễn Thế Đăng

Giải Thoát Qua Cái Thấy

Có phải khi thấy tánh Không thì không thấy gì hết? Có phải thấy “pháp tánh” thì không còn thấy các pháp? Có phải khi đạt đến tam muội, sắc tướng tam-muội, thanh tướng tam-muội, hương tướng tam-muội,… nam nữ tướng tam-muội, thiên long tướng tam-muội, súc sanh tướng tam-muội, địa ngục tướng tam-muội… thì người ta không còn thấy con người, thế giới, các cõi? Nếu không thấy như vậy thì người tu đạo Bồ-tát làm sao để giúp đỡ chúng sanh trong thế giới loài người và trong các cõi? Còn nếu có thấy thì vị ấy thấy như thế nào?

Theo định nghĩa của kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi Phổ môn thì thấy tánh Không là thấy sự không có tự tánh của chúng sanh và mọi sự vật, chứ không phải không thấy chúng sanh và mọi sự vật. Tánh Khôngduyên sanh nên vô tự tánh. Kinh nói “như huyễn, như mộng”, nghĩa là có thấy, nhưng vì bản chất của chúng là vô tự tánh, nên thấy mà hư huyễn, như mộng.

Hơn nữa, theo kinh, tánh Không không phải là không có gì hết; tánh Khôngbình đẳng, Niết-bàn, thật tế, Chân như, pháp giới, Phật tánh…
Pháp tham trong Phật pháp
Bình đẳng tức Niết-bàn
Người trí phải nên biết. (Tham tướng tam-muội)
Tức giận tức thật tế
Bởi từ Chân như khởi
Biết rõ như pháp giới
Thì gọi sân tam-muội. (Sân tướng tam-muội)
Si tánh với Phật tánh
Bình đẳng không sai khác. (Si tướng tam-muội)

Một người, khi đã chứng ngộ một phần tánh Không, tức là chứng ngộ một phần Pháp thân, thì sẽ thấy những sự vật đồng thời cũng thấy bản tánh Không của những sự vật. Người ấy thấy các tướng đồng thời thấy chúng “chẳng phải tướng” (như kinh Kim cương nói), chúng là “vô tướng”, nghĩa là chúng là tánh Không. Người ấy vẫn thấy tướng nam, tướng nữ, tướng chư thiên, tướng rồng, tướng a-tu-la… để đối xử thích hợp, nhưng vẫn thấy nền tảng bình đẳng của chúng là tánh Không. Lấy thí dụ là tấm gương và các bóng trong gương. Người ta thấy các bóng trong gương khác biệt nhau, không lẫn lộn, nhưng các bóng ấy đều ở trong gương, đều có bản chất bình đẳng là gương.

Nếu dùng chữ “mà” (nhi) thường thấy trong kinh điển Đại thừa thì: khác biệt mà không khác biệt, không khác biệt mà khác biệt. Phân biệtvô phân biệt, vô phân biệtphân biệt. Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Sắc mà là Không, Không mà là sắc. Chân lý tương đối mà là chân lý tuyệt đối, chân lý tuyệt đối mà là chân lý tương đối.

Tam-muội hay tánh Không không phá hủy tất cả các tướng. Nói cách khác, không phải phá hủy các tướng thì đạt được tánh Không. Đúng hơn, phải phá hủy vô minh nơi tâm mình, chính vô minh ấy khiến chúng ta nhìn thấy sự phân biệt, chia cắt, tách lìa nơi các tướng. Một Bồ-tát ở trong tam-muội hay tánh Không thì thấy các sắc, nhưng giờ đây các sắc ấy trở thành thanh tịnh.

“Đức Phật dạy: Này Văn-thù-sư-lợi! Có tam-muội tên Vô biên ly cấu. Nếu Bồ-tát đắc tam-muội ấy thì hiển hiện được tất cả các sắc thanh tịnh”.

Tam-muội hay tánh Không là ánh sáng trùm khắp. “Có tam-muội tên là Khả úy diện. Bồ-tát đắc tam-muội ấy thì có ánh sáng lớn mạnh, che mờ mặt trời mặt trăng. Có tam-muội tên là Vô ngại quang. Bồ-tát đắc tammuội ấy thì chiếu sáng được tất cả các cõi nước Phật…”. Tam-muội hay tánh Không không phá hủy các tướng, mà là ánh sáng chiếu sáng các tướng. “Có tam muội tên là Hỷ lạc. Bồ-tát đắc tam-muội ấy có thể làm cho các chúng sanh đầy đủ hỷ lạc”.

Có thể kết luận, tam-muội hay tánh Không là nền tảng của mọi xuất hiện hình tướng, làm cho các hình tướng trở lại thanh tịnh và xuất sanh những phẩm tính tốt cho chúng sanh. Như thế, tam-muội là đưa tất cả mọi sự trở về bản tánh Không của chúng. Khi đưa thế giới, chúng sanh trở lại nền tảng, chúng không biến mất mà trở lại bản chất thực của chúng là vô tự tánh. Vô tự tánh nghĩa là tự do, giải thoát. Khi thế giớichúng sanh được ở trong tam-muội, ở trong tánh Không, chúng vẫn có những tướng sai khác nhau, nhưng như huyễn như mộng. Như huyễn như mộng là sự tự do, giải thoát của mọi hình tướng.

Nền tảng tánh Không ấy không do ai làm ra, không do nguyên nhânđiều kiện nào làm ra, nên nó là cái có sẵn, nó là bản tánh của tất cả các hiện tượng. Ở đâu có sự vật, có hiện tượng, ở đó có nó. Thực tại tối hậu ấy, chỉ lấy trong kinh này, là Pháp tánh, Niết-bàn, Chân như, thật tế, Phật tánh… đều là những cái có sẵn và đang có. Như Phật tánh, kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Chúng ta đều có và đang có cái thấy biết của Phật (tri kiến Phật) như kinh Pháp hoakinh Hoa nghiêm nói.

Vậy thì vấn đềchúng ta đang có đủ từ gốc tới ngọn, từ bản tánh của tâm (Phật tánh) đến các giác quan, thế thì tại sao cũng cùng trong một cái nhìn, chúng sanh chúng ta chỉ thấy sanh tử khổ đau mà các Bồ-tát thì thấy Niết-bàn tịnh lạc? Tại sao cũng cùng một thực tại trước mắt, chúng ta chỉ thấy những sự vật tách biệt nhau, xung đột nhau, trái nghịch nhau trong khi các Bồ-tát lại thấy đó là Niết-bàn thường, lạc, chân, tịnh?

Tại sao đứng trước cùng một thực tại, với những khả năng giác quan đầy đủ như nhau, chúng ta lại thấy ra một thế giới phân mảnh thành muôn vàn hình tướng khác biệt và chống trái lẫn nhau? Đó là vì thói quen (nghiệp) phân biệt trong tất cả tám thức đã tạo ra sanh tử:
Nếu ai biết rõ được
Các pháp là vô sanh
Chẳng nên khởi phân biệt…
(Đồng nữ tướng tam-muội)
Các tướng đều chẳng có
Do nhiễm phân biệt sanh
Như muốn nắm hư không
Đặt yên ở một chỗ
Dầu trải muôn ngàn kiếp
Không hề tích tụ được.
(Si tướng tam-muội)
Tánh tham như hư không
Cũng không có kiến lập
Phàm phu vọng phân biệt
Do đó sanh tham nhiễm
Pháp tánh vốn vô nhiễm
Thanh tịnh như hư không
Tìm cầu khắp mười phương
Hư không chẳng nắm được…
(Tham tướng tam-muội)

Trước thực tại “thanh tịnh như hư không” chỉ vì vọng phân biệt mà có ra các tướng của sanh tử. Cho nên, cùng một thực tại, cùng có tám thức, chỉ cần nhìn mà không phân biệt thì đó là cái thấy thực tại thanh tịnh từ xưa nay chưa từng có sanh tử.

Cũng sống trong thức phân biệt, nhưng thấy nghe hay biết mà không phân biệt thì đây là tánh thấy tánh nghe như kinh Lăng nghiêm nói. Các giác quan vẫn hoạt động nhưng không phân biệt thì đây là nền tảng, cội nguồn vô sanh của các giác quan.

Trong kinh Phật tự thuyết, phẩm Bồ-đề, kinh Tiểu bộ, kể câu chuyện ngài Bahiya đắc quả A-la-hán sau khi nghe Đức Phật chỉ dạy về nền tảng, ông chủ của các giác quan, như sau: “Trong cái thấy chỉ là thấy; trong cái nghe chỉ là nghe; trong cái thọ tưởng chỉ là thọ tưởng; trong cái thức tri chỉ là thức tri. Do vậy, này Bahiya, ông không ở đâu cả. Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là khổ đau hết sạch”.

Nguyễn Thế Đang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16677)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24143)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20574)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18273)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19848)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14844)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12971)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13956)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13147)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14010)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17636)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15397)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14691)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14455)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17852)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21896)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20605)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25133)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16879)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14711)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18982)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22001)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25282)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15770)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20724)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17014)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18633)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20021)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39308)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31510)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30599)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36014)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23865)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26548)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant