Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tám Giải Thoát Theo Tập Dị Môn Túc Luận

03 Tháng Mười 201904:58(Xem: 5106)
Tám Giải Thoát Theo Tập Dị Môn Túc Luận

TÁM GIẢI THOÁT 

TRÍCH TỪ BẢN VIỆT DỊCH A-TÌ-ĐẠT-MA TẬP DỊ MÔN TÚC LUẬN
ABHIDHARMA SANGĪTIPARYĀYA PĀDAŚĀSTRA
阿毘達磨集異門足論
***
Thích Phước Nguyên dịch và chú

blank

blank
Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế ISBN: 978-604-89-6649-2

 

Tám giải thoát: Những gì là tám?

1. Hoặc hữu sắc, quán các sắc, là giải thoát thứ nhất.

2. Hoặc nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc, là giải thoát thứ hai.

3. Thân tác chứng thành tựuan trú tịnh giải thoát, là giải thoát thứ ba.

4. Vượt thoát sắc tưởng, diệt tận hữu đối tưởng, không tư duy về đa dạng ấn tượng, thể nhập không vô biên, vị ấy chứng nghiệman trú Không vô biên xứ, đó là giải thoát thứ.

5. Vượt thoát tất cả loại Không vô biên xứ, thể nhập vô biên thức, vị ấy chứng nghiệman trú Thức vô biên xứ, giải thoát thứ năm.

6. Vượt thoát tất cả loại Thức vô biên xứ, thể nhập vô sở hữu, vị ấy chứng nghiệman trú Vô sở hữu xứ, đó là giải thoát thứ sáu.

7. Vượt thoát tất cả loại Vô sở hữu xứ, thể nhập Phi tưởng phi phi tưởng, vị ấy chứng nghiệman trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó là giải thoát thứ bảy.

8. Vượt thoát tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thể nhập diệt thọ tưởng, thân tác chứng thành tựuan trú, đógiải thoát thứ tám[1].

i. Giải thoát thứ nhất

Trong đây, hoặc hữu sắc[2] quán các sắc: vị ấy đối với nội phần, sắc tưởng cá biệt: chưa viễn ly, chưa cá biệt viễn ly, chưa điều phục, chưa cá biệt điều phục, chưa diệt tận, chưa phá hoại. Vị ấy do đối với nội phần sắc tưởng cá biệt chưa viễn ly, chưa cá biệt viễn ly, chưa điều phục, chưa cá biệt điều phục, chưa diệt tận, chưa phá hoại, do lực thắng giải quán sát ngoại sắc, hoặc tư duy thanh ứ, hoặc tư duy nùng lạn, hoặc tư duy phá hoại, hoặc tư duy bành trướng, hoặc tư duy hài cốt, hoặc tư duy cốt tỏa, đó gọi là hoặc hữu sắc quán các sắc.

Thứ nhất: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ nhất.

Giải thoát: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đó gọi là giải thoát.

ii. Giải thoát thứ hai

Nội vô sắc tưởng quán ngoại các sắc: vị ấy đối với nội phần, sắc tưởng cá biệt: đã viễn ly, đã cá biệt viễn ly, đã điều phục, đã cá biệt điều phục, đã diệt tận, đã phá hoại. Vị ấy do đối với nội phần sắc tưởng cá biệt đã viễn ly, đã cá biệt viễn ly, đã điều phục, đã cá biệt điều phục, đã diệt tận, đã phá hoại, do lực thắng giải quán sát ngoại sắc, hoặc tư duy thanh ứ, hoặc tư duy nùng lạn, hoặc tư duy phá hoại, hoặc tư duy ly tán, hoặc tư duy trác đạm, hoặc tư duy dị xích, hoặc tư duy hài cốt, hoặc tư duy cốt tỏa. Đó gọi là nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc.

Thứ hai: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ hai.

Giải thoát: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đó gọi là giải thoát.

iii. Giải thoát thứ ba

“Thân tác chứng thành tựuan trú tịnh giải thoát”: Thế nào là gia hành của tịnh giải thoát này? Tu quán hành giả do phương gì nhập tịnh giải thoát định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu quán, trước hết cần phải nắm lấy hình thái thanh thọ, như thanh hành, thanh chi, thanh diệp, thanh hoa, thanh quả, hoặc nắm lấy hình thái thanh y, thanh nghiêm cụ tướng, hoặc nắm lấy đa dạng thanh tướng nào khác. Khi đã nắm lấy các thanh tướng như thế rồi, do lực thắng giải, tư duy tưởng niệm, quan sát an lập[3], tín giải sắc này là thanh tướng ấy.

Vị ấy bởi vì lực thắng giải, tư duy tưởng niệm, quán sát an lập, tín giải sắc này là thanh tướng như thế, tâm liền tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy sắc này là màu xanh mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy sắc này nhất định là màu xanh, chưa thể trụ tâm nhập giải thoát định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một thanh tướng, nói đây là màu xanh, chẳng phải phi thanh tướng, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, nhập tịnh giải thoát định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy thanh tướng không hai, không chuyển, tư duy sắc này nhất định là thanh tướng.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về môtj điểm, giữ chặt niệm khiến cho tiết lập trên một đối tượng, tư duy thanh tướng không hai, không chuyển, tư duy thanh này vô nhị, vô chuyển, liền có thể chứng nhập tịnh giải thoát định.

Như quán thanh tướng thế nào, thì quán hoàng, xích, bạch, tùy theo chỗ thích hợp, cũng lại như thế.

Thứ ba: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ ba.

Giải thoát: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đó gọi là giải thoát.

iv. giải thoát thứ tư

“Vượt thoát sắc tưởng”, sắc tưởng là gì?

Những gì là tưởng tương ưng với nhãn thức thân, trạng thái bình đẳng tưởng, trạng thái tưởng bình đẳng hiện tiền, trạng thái đã tưởng, trạng thái đã hiện tưởng, trạng thái sẽ tưởng, trạng thái đang hiện tưởng, gọi chung là sắc tưởng.

Lại nữa, có thuyết nói: Những gì là tưởng, tưởng bình đẳng tương ưng với năm thức thân, cho đến: đó gọi chung là sắc tưởng.

Nay trong nghĩa này: duy chỉ tưởng, bình đẳng tưởng tương ưng với nhãn thức thân, nói chi tiết cho đến: đó gọi là sắc tưởng.

Khi thể nhập định này, đối với sắc tưởng đó, vị ấy đều có thể siêu việt, bình đẳng siêu việt, tối cực siêu việt, cho nên gọi là vượt thoát sắc tưởng .

“Diệt tận hữu đối tưởng”, hữu đối tưởng là gì?

Đó là tưởng, bình đẳng tưởng mà tương ưng với bốn thức thân, nói chi tiết cho đến: đó gọi là hữu đối tưởng[4].

Lại nữa, có thuyết nói: tưởng, tưởng bình đẳngtương ưng với sân nhuế, nói chi tiết cho đến: đó gọi là hữu đối tưởng.

Nay trong nghĩa này, duy chỉ nói tưởng, bình đẳng tưởng mà tương ưng với bốn thức thân, nói chi tiết đến: đó gọi là hữu đối tưởng.

Khi nhập định này, vị ấy đã đoạn biến tri[5] đối với hữu đối tưởng ấy, đã viễn ly, đã cá biệt viễn ly, đã điều phục, đã cá biệt điều phục, đã ẩn diệt, đã phá hoại, cho nên gọi là diệt tận hữu đối tưởng.

“Không tư duy về đa dạng ấn tượng”, đa dạng ấn tượng là gì?

Những gì là ấn tượng về sắc, thanh, hương, vị, xúc nhiễm ô của người bị triền cái cuộn chặt; những ấn tượngbất thiện, những ấn tượng gì được dẫn bởi cái phi lý, những ấn tượngchướng ngại định, tất cả như thế gọi là đa dạng ấn tượng.

Khi nhập định này, ấn tượng đa thù đó không còn được dẫn phát nữa, không còn tùy thuận dẫn phát, hoàn toàn không tùy thuận dẫn phát, không còn được tư duy nữa, đã không còn được tư duy, sẽ không còn được tư duy, do đây được gọi là “không tư duy về đa dạng ấn tượng”.

“Thể nhập không vô biên, vị ấy chứng nghiệman trú Không vô biên xứ”. Gia hành của Không vô biên xứ định là gì? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà nhập Không vô biên xứ định?

Đối với định này, khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành, trước hết cần phải tư duy đệ tứ tĩnh lự là thô, khổ và chướng, tiếp theo cần phải tư duy Không vô biên xứ là tĩnh, diệu và ly[6].

Vị ấy lúc bấy giờ, khi đã tư duy đệ tứ tĩnh lự là thô, khổ và chướng, cũng đã tư duy Không vô biên xứ là tĩnh, diệu và ly, nhưng nếu tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Không vô biên xứ.

Bởi vì, vị ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Không vô biên xứ, nên chưa thể trụ tâm nhập Không vô biên xứ giải thoát định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, rong ruổi sang cảnh giới khác, chuyên nhất hệ niệm, tư duy đặc điểm Không vô biên xứ; tư duy đặc điểm này, phát động nỗ lực tinh tấn, làm cho kiên cố dũng mãnh, cho đến: khiến tâm an trụ lâu dài, đó gọi là gia hành Không vô biên xứ giải thoát, cũng gọi là nhập Không vô biên xứ giải thoát.

Tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều, khiến tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy đây là Không vô biên xứ.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy Không vô biên xứ như thế, không hai, không chuyển, liền có thể chứng nhập Không vô biên xứ giải thoát định[7].

Thứ tư: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ tư.

Giải thoát: trong định này, những gì là thọ, tưởng, hành, thức thuộc thiện, đó gọi là giải thoát.

v. giải thoát thứ năm

 “Vượt thoát hết thảy loại Không vô biên xứ”: Thế nào là vượt thoát tất cả Không vô biên xứ?

Vị ấy lúc bấy giờ khi đi vào Thức vô biên xứ, đối với tất cả ấn tượng Không vô biên xứ, đều có thể siêu việt, bình đẳng siêu việt, tối cực siêu việt, vì vậy gọi là vượt thoát hết thảy loại Không vô biên xứ.

“Thể nhập vô biên thức, vị ấy chứng nghiệman trú Thức vô biên xứ”. Gia hành của Thức vô biên xứ định này là gì? Tu quán hành giả do phương tiện gì mà nhập Thức vô biên xứ giải thoát định?

Đối với định này, khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành, trước hết cần phải tư duy Không vô biên xứ là thô, khổ và chướng, tiếp theo cần phải tư duy Thức vô biên xứ là tĩnh, diệu và ly.

Vị ấy lúc bấy giờ, khi đã tư duy Không vô biên xứ là thô, khổ và chướng, cũng đã tư duy Thức vô biên xứ là tĩnh, diệu và ly, nếu tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, thì không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Thức vô biên xứ.

Bởi vì, vị ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Không vô biên xứ, nên chưa thể trụ tâm nhập Thức vô biên xứ giải thoát định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, rong ruổi sang cảnh giới khác, chuyên nhất hệ niệm, tư duy đặc điểm Thức vô biên xứ; tư duy đặc điểm này, phát động nỗ lực tinh tấn, làm cho kiên cố dũng mãnh, cho đến: khiến tâm an trụ lâu dài, đó gọi là gia hành Thức vô biên xứ giải thoát, cũng gọi là nhập Thức vô biên xứ giải thoát.

Tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều, khiến tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy đây là Thức vô biên xứ.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy Thức vô biên xứ như thế, không hai, không chuyển, liền có thể chứng nhập Thức vô biên xứ giải thoát định.

Thứ năm: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ năm.

Giải thoát: trong định này, những gì là thọ, tưởng, hành, thức thuộc thiện, đó gọi là giải thoát.

vi. giải thoát thứ sáu

“Vượt thoát hết thảy loại Thức vô biên xứ”: Thế nào là vượt thoát tất cả Thức vô biên xứ?

Vị ấy lúc bấy giờ khi đi vào Vô sở hữu xứ, đối với tất cả ấn tượng Thức vô biên xứ, đều có thể siêu việt, bình đẳng siêu việt, tối cực siêu việt, vì vậy gọi là vượt thoát hết thảy loại Thức vô biên xứ.

“Thể nhập vô sở hữu xứ, vị ấy chứng nghiệman trú vô sở hữu xứ”. Gia hành của Vô sở hữu xứ định này là gì? Tu quán hành giả do phương tiện gì mà nhập Vô sở hữu xứ giải thoát định?

Đối với định này, khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành, trước hết cần phải tư duy Thức vô biên xứ là thô, khổ và chướng, tiếp theo cần phải tư duy Vô sở hữu xứ là tĩnh, diệu và ly.

Vị ấy lúc bấy giờ, khi đã tư duy Thức vô biên xứ là thô, khổ và chướng, cũng đã tư duy Vô sở hữu xứ là tĩnh, diệu và ly, nếu tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, thì không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Thức vô biên xứ.

Bởi vì, vị ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Vô sở hữu xứ, nên chưa thể trụ tâm nhập Vô sở hữu xứ giải thoát định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, rong ruổi sang cảnh giới khác, chuyên nhất hệ niệm, tư duy đặc điểm Vô sở hữu xứ; tư duy đặc điểm này, phát động nỗ lực tinh tấn, làm cho kiên cố dũng mãnh, cho đến: khiến tâm an trụ lâu dài, đó gọi là gia hành Vô sở hữu xứ giải thoát, cũng gọi là nhập Vô sở hữu xứ giải thoát.

Tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều, khiến tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy đây là Vô sở hữu xứ.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy Vô sở hữu xứ như thế, không hai, không chuyển, liền có thể chứng nhập Vô sở hữu xứ giải thoát định.

Thứ sáu: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ sáu.

Giải thoát: trong định này, những gì là thọ, tưởng, hành, thức thuộc thiện, đó gọi là giải thoát.

vii. giải thoát thứ bảy

“Vượt thoát hết thảy loại Vô sở hữu xứ”: Thế nào là vượt thoát tất cả Vô sở hữu xứ?

Vị ấy lúc bấy giờ khi đi vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đối với tất cả ấn tượng Vô sở hữu xứ, đều có thể siêu việt, bình đẳng siêu việt, tối cực siêu việt, vì vậy gọi là vượt thoát hết thảy loại Vô sở hữu xứ.

“Thể nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy chứng nghiệman trú phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Gia hành của Phi tưởng phi phi tưởng xứ định này là gì? Tu quán hành giả do phương tiện gì mà nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát định?

Đối với định này, khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành, trước hết cần phải tư duy Vô sở hữu xứ là thô, khổ và chướng, tiếp theo cần phải tư duy Phi tưởng phi phi tưởng xứ là tĩnh, diệu và ly.

Vị ấy lúc bấy giờ, khi đã tư duy Vô sở hữu xứ là thô, khổ và chướng, cũng đã tư duy Phi tưởng phi phi tưởng xứ là tĩnh, diệu và ly, nếu tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, thì không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Vô sở hữu xứ.

Bởi vì, vị ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng để tư duy về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên chưa thể trụ tâm nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, rong ruổi sang cảnh giới khác, chuyên nhất hệ niệm, tư duy đặc điểm Phi tưởng phi phi tưởng xứ; tư duy đặc điểm này, phát động nỗ lực tinh tấn, làm cho kiên cố dũng mãnh, cho đến: khiến tâm an trụ lâu dài, đó gọi là gia hành Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát, cũng gọi là nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.

Tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều, khiến tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy đây là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một mối, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy Phi tưởng phi phi tưởng xứ như thế, không hai, không chuyển, liền có thể chứng nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát định.

Thứ bảy: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ bảy.

Giải thoát: trong định này, những gì là thọ, tưởng, hành, thức thuộc thiện, đó gọi là giải thoát.

viii. giải thát thứ tám

“Vượt thoát hết thảy loại Phi tưởng phi phi tưởng xứ”: Thế nào là vượt thoát tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ?

Vị ấy lúc bấy giờ khi đi vào Tưởng thọ diệt giải thoát, đối với tất cả ấn tượng Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đều có thể siêu việt, bình đẳng siêu việt, tối cực siêu việt, vì vậy gọi là vượt thoát hết thảy loại Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

“Nhập Tưởng thọ diệt, thân tác chứng, thành tựu và an trú”: Gia hành của Tưởng thọ diệt giải thoát này là gì? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà nhập Tưởng thọ diệt giải thoát định?

Đối với định này, khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành, bất nguyện tạo tác, bất dục tư giác mà nhập vào định, nhưng khởi niệm này: “Làm sao để khiến cho các thọ tưởng chưa sinh tạm thời không sinh? Tưởng thọ đã sinh thì tạm thời đình diệt?”

Vị ấy đối với các hành, không nguyện tạo tác, không muốn tư giác mà nhập vào định, nhưng khởi niệm này: “Làm sao để khiến cho các thọ tưởng chưa sinh tạm thời không sinh? Tưởng thọ đã sinh thì tạm thời đình diệt?” Nên tùy tâm sở nguyện, có khi có khả năng khiến cho tưởng thọ chưa sinh tạm thời không sinh, tưởng thọ đã sinh thì tạm thời đình diệt. Ngay mức độ này, gọi là nhập tưởng thọ diệt giải thoát định.

Thứ tám: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ tám.

Giải thoát: tức trong định này, những gì là giải thoát, dị giải thoát, dị cực giải thoát, đã giải thoát, sẽ giải thoát, đó gọi là giải thoát.

Trong đây, tưởng thọ diệt giải thoát định, thế nào là tưởng thọ diệt? Thế nào là tưởng thọ giải thoát? Thế nào là tưởng thọ diệt giải thoát định, mà nói là tưởng giải thoát định?

Tưởng thọ diệt: tức là tưởng và thọ diệt tận, tịch tịnh, an tĩnh, chìm xuống, đó gọi là tưởng thọ diệt.

Tưởng thọ diệt giải thoát: Những gì là giải thoát từ sự tịch diệt tưởng thọ, dị giải thoát, dị cực giải thoát, đã giải thoát, sẽ giải thoát, đó gọi là tưởng thọ diệt giải thoát.

Tưởng thọ diệt giải thoát định: tưởng thọ diệt và tưởng thọ diệt giải thoát, không ẩn không trái, tự tại hiện tiền, thân sở chứng đắc, đó gọi là tưởng thọ diệt giải thoát định.



[1] Skt. aṣṭau vimokṣāḥ | rūpī rūpāṇi paśyaty ayaṃ prathamo vimokṣaḥ | adhyātmam arūpasaṃjñī bahirdhā rūpāṇi paśyaty ayaṃ dvitīyo vimokṣaḥ | śubhaṃ vimokṣaṃ kāyena sākṣātkṛtvopasaṃpadya viharaty ayaṃ tṛtīyo vimokṣaḥ | punar aparaṃ bhikṣuḥ sarvaśo rūpasaṃjñānāṃ samatikramāt pratighasaṃjñānām astaṅgamān nānātvasaṃjñānām amanasikārād anantam ākāśam ākāśānantyāyatanam upasaṃpadya viharati | ayaṃ caturtho vimokṣaḥ | punar aparaṃ bhikṣuḥ sarvaśa ākāśānantyāyatanaṃ samatikramyānantaṃ vijñānaṃ vijñānānantyāyatanam upasampadya viharati | ayaṃ pañcamo vimokṣaḥ | punar aparaṃ bhikṣuḥ sarvaśo vijñānānantyāyatanaṃ samatikramya nāsti kiñcid ity ākiñcanyāyatanam upasampadya viharati | ayaṃ ṣaṣṭho vimokṣaḥ | punar aparaṃ bhikṣuḥ sarvaśa ākiñca nyāyatanaṃ samatikramya naivasaṃjñānāsa ṃjñāyatanam upasaṃpadya viharati | ayaṃ saptamo vimokṣaḥ | punar aparaṃ bhikṣuḥ sarvaśo naivasaṃjñānāsaṃjñāyatanaṃ samatikramya saṃjñāvedayitanirodhaṃ kāyena sākṣīkṛtvopasaṃpadya viharaty ayam aṣṭamo vimokṣaḥ; Chúng tập: “tám giải thoát: 1. Sắc quán sắc giải thoát. 2. Nội không sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát. 3. Tịnh giải thoát. 4. Vượt quá sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, an trú hư không vô biên xứ giải thoát. 5. Vượt hư không vô biên xứ an trúthức vô biên xứ giải thoát. 6. Vượt thức vô biên xứ antrú vô hữu xứ giải thoát. 7. Vượt vô sở hữu xứ an trú phi phi tưởng xứ giải thoát. 8. Vượt phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú diệt tận định giải thoát.” Tham chiếu Pāli: Aṭṭha vimokkhā. Rūpī rūpāni passati. Ayaṃ paṭhamo vimokkho. Ajjhattaṃ arūpasaññī bahiddhā rūpāni passati. Ayaṃ dutiyo vimokkho. Subhanteva adhimutto hoti. Ayaṃ tatiyo vimokkho. Sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā ‘ananto ākāso’ti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ catuttho vimokkho. Sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma ‘anantaṃ viññāṇan’ti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ pañcamo vimokkho. Sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ chaṭṭho vimokkho. Sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ sattamo vimokkho. Sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ aṭṭhamo vimokkho.

[2] 有色 hữu sắc, Skt. rūpitva, Tib. gzugs can, có hình thái, đặc điểm, Kośa iii: na atra rūpam asti ity arūpaḥ, arūpasya bhāva ārūpyam, rūpaṇīyo vā rūpyaḥ, “sắc nghĩa là biến hoại, ngăn ngại. Hoặc có nghĩa là thị hiện”. Từ rūpaṇīyo=bādhānīya (Abhidh-k-vy), biến ngại hay biến hoại đồng nghĩa với tổn hại; sắc/rūpa, cái có xu hướng sụp đổ, gây tổn hại. Định nghĩa theo động từ căn √rup/ lup: gây tổn hại; hoặc định nghĩa theo động từ căn √rūp: tạo hình, định dạng. Abhidh-k-vy: rūpaṇaṃ rūpaṃ. tad eṣām astīti rūpiṇaḥ, “sắc có tính băng hoại; cái nào có tính chất này, đó là cái có sắc (rūpiṇa)”. Thuận chánh lý 4, tr. 348b23: “biến ngại gọi là sắc, có biến ngại nghĩa, cho nên gọi là hữu sắc”. Tì-bà-sa 128, tr. 666a14: “vì sắc thể đều có biến ngại nghĩa, có sắc nghĩa đó, vì vậy gọi là hữu sắc”, op.cit. q.137, tr. 707a15 (Tập dị môn 17, tr. 437c25-27): “Nghĩa là hữu tình đó, có sắc khả liễu, có sắc thân, có sắc giới xứ uẩn, có sắc thi thiết, cho nên gọi là hữu sắc”, op.cit. 200, tr. 998c26: “Kẻ đó chấp ngã, lấy sắc làm tính thể, cho nên gọi là hữu sắc”.

[3] 安立 an lập, Skt. pratiṣṭhāpana, Tib. bzhag pa: đặt để, thiết trí.

[4] Abhidh-k-vy: yatraikaṃ sapratighaṃ vastu tatra dvitīyasyotpattir na bhavati, “nơi nào có một vật thể hữu đối, nơi đó không tồn tại vật thể thứ hai”. Phân biệt: Tướng (ākāra) tức hành tướng, chỉ hình thái hoạt động, tức ảnh tượng (của nó) với tướng (lakṣaṇa) là yếu tính hay đặc điểm, và tướng (nimitta) là dấu hiệu hay tín hiệu.

[5] Đoạn biến tri 斷遍知, Skt. prahāṇa-parijñā; Tib. spong ba yongs su shes pa. Phát trí 2, tr. 924 c: “Thế nào là đoạn biến tri? Các tham đã vĩnh viễn bị đoạn trừ, sân và si vĩnh viễn bị đoạn trừ. Tất cả phiền não vĩnh viễn bị đoạn trừ”. Pāli: pahāna-pariññā: đoạn trừ rốt ráo, cũng có nghĩa là nhận thức toàn diện về sự đoạn trừ, tức đã đoạn trừ triệt để.

[6] 麤苦障; 靜妙離; Skt. audārika-duḥkhila-sthūlabhittika; śāntataḥ, praṇītataḥ, niḥsaraṇataś; Sáu hành tướng (ākāra) trong phát triển hữu lậu đạo. Quán sát hạ giới với ba hành tướng: thô (audārikatas), khổ (duḥkhilatas), chướng (sthūlabhittikatas); thượng giới với ba hành tướng: tĩnh (śāntatas), diệu (praṇītatas), ly (niḥsaraṇatas). Do quán sát ba phẩm chất của địa trên mà các phiền não thuộc địa dưới bị trấn phục. Câu-xá 24, tr. 127c19.

[7] Pháp uẩn (bản dịch Việt tập I), giải thích thêm: “Lại nữa, ở trong định này, các Tâm-Ý-Thức gọi là Tâm câu hành với Không vô biên xứ định. Những gì là nghiệp được tạo tác bởi tâm ý, sau khi đã tư, sẽ tư, hiện tiền tư, các tư và đẳng tư, gọi là ý nghiệp câu hữu với Không vô biên xứ định. Những gì là thắng giải của Tâm , đã thắng giải, sẽ thắng giải, gọi là thắng giải câu hành với Không vô biên xứ định. Lại nữa, ở trong định này, hoặc Thọ, hoặc Tưởng, cho đến: hoặc Tuệ v.v… gọi là các Pháp câu hành với Không vô biên xứ định. Các Pháp như thế, cũng gọi là gia hành Không vô biên xứ định, cũng gọi là nhập Không vô biên xứ định”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9882)
Không làm điều ác; không chán nản, không bỏ cuộc, kiên trì và nhẫn nại quyết làm xong việc lành mới thôi; chính là hai “tướng mạo” của người trí.
(Xem: 9379)
Con ngườisinh lão bệnh tử, đó là quy luật vĩnh hằng; cũng như trái đất có thành trụ hoại không.
(Xem: 10805)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả.
(Xem: 10300)
Khi tập ngồi thiền, ban đầu cần phải sổ tức (đếm hơi thở). Thời gian sau thuần thục rồi đến tùy tức, sau đó tri vọng, biết là chơn tâm…
(Xem: 9848)
Chúng ta là người tu thiền, trước tiên phải hiểu thiền là gì một cách căn bản, sau đó ứng dụng công phu mới không bị sai lệch.
(Xem: 11324)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai?
(Xem: 18915)
Trăm năm trong cõi người ta tuy có tới ba vạn sáu ngàn ngày nhưng thật là ngắn ngủi. Càng ngắn ngủi hơn vì mấy ai sống tới trăm năm.
(Xem: 9702)
Được làm người là một phúc duyên to lớn như vậy nên Đức Phật khuyên nhắc mọi người cần phải được trân trọng và vận dụng cái phúc duyên may mắn ấy để tu tập
(Xem: 8988)
Kế thừa gia tài Chánh pháp của Phật và thầy tổ để ứng dụng tu tập, hoằng truyền giáo pháp là việc cần làm.
(Xem: 9546)
Chúng ta nghe khá nhiều về việc phải tu tập hạnh từ bi nhưng mình cứ loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu!
(Xem: 9013)
Không tranh giành, tranh cãi, tranh luận, tranh chấp, tranh chiến, tranh đoạt, tranh đua; không tranh danh, tranh lợi, tranh tài, tranh công, tranh thế, tranh quyền…
(Xem: 9334)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?”
(Xem: 9010)
Người xưa nói: “Cảnh cùng khốn phải chăng là trường thí nghiệm về nhân cách con người? Phải chăng, cùng khốn hay không cùng khốn là do hoàn cảnh.
(Xem: 9738)
Giáo lý nhà Phật nói rằng nếu ngôi nhà của tôi đẹp đẽ, ấm cúng, nhiều năng lượng, chắc chắn tôi sẽ khỏe mạnh và có bình an, nhất định tôi hạnh phúcmãn nguyện.
(Xem: 10498)
Nếu chúng ta suy ngẫm về cái chết từ trong tim ta, điều nầy có thể mang lại cho chúng ta một cái nhìn làm phong phú thêm cho cuộc sống, và cho các mối quan hệ...
(Xem: 9394)
Kinh Hoa Nghiêm chỉ dạy về pháp giới vô ngại, cho nên, ngoài những pháp quán có trong những kinh khác, đặc trưng của kinh Hoa Nghiêm là nói về ba pháp quán vô ngại.
(Xem: 9954)
Không có tự ngã nào khác hơn là phức hợp của tâm thứcthân thể bởi vì Tách rời khỏi phức hợp tâm-thân, khái niệm của nó không tồn tại.
(Xem: 10377)
Phật pháp đồi với chúng ta là một kho báu vô tận , cung cấp những chân giá trị để hướng dẫn con người có một cuộc sống tốt đẹp và hiền thiện cho chính mình .
(Xem: 9557)
Muốn chuyển hóa căn bệnh sân hận, ta phải thực tập hạnh kham nhẫn, nghĩa là nhịn chịu những điều không vừa ý, trái lòng như...
(Xem: 10904)
Cơ thể chúng ta biến đổi. Nói chung, ngay cả tinh thần hay thiền định cũng không cản nổi việc biến đổi.
(Xem: 10292)
Thế tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta .
(Xem: 9467)
nhân quả nghiệp báo giúp cho con ngườitinh thần trách nhiệm, sáng suốt, biết lựa chọn nhân tốt để làm và tránh xa nhân xấu ác.
(Xem: 10673)
Người tu là người đi tìm hạnh phúc chân thật, hạnh phúc này chỉ có khi tâm không còn bám víu, dính mắc, thèm khát mọi sự vật trên đời này.
(Xem: 12745)
Một Phật tử khôn khéo là biết học tập những gì nên học tập, không làm theo những điều chưa tốt chưa hay. Cứ theo Phật theo Pháp hành trì, vững chải mà tiến lên.
(Xem: 10391)
Có những thứ bạn nghĩ mình muốn, nhưng có thể là những thứ bạn không cần. Vì bản chất tham lam nên đôi khi mình thèm muốn rất nhiều thứ mới thỏa mãn được bản ngã của mình.
(Xem: 10274)
Tất cả cũng tàn phai Chỉ tình thương ở lại Những gì trao hôm nay Sẽ theo nhau mãi mãi.
(Xem: 13491)
Hàng người dài bất tận, im lặng, chăm chú nhìn vào ngọn nến cầm trên tay và theo dõi từng bước chân, đi tới, đi tới mãi…, dưới bầu trời đêm vắng lặng...
(Xem: 10842)
Nghĩ đến các cảnh tượng khổ đau mà chúng sinh đang phải gánh chịu là một phương pháp giúp mình thiền định về lòng từ bi.
(Xem: 10132)
Khi tâm tư lạc lõng Hãy quay lại chính mình Nương tựa vào hơi thở Chốn nghỉ ngơi an bình
(Xem: 9130)
Tôi nói đến việc đạt đến đời sống hạnh phúc như thế nào trong phạm vi thế tục. Tôi thật vui mừng có cơ hội để nói chuyện với nhiều người ở đây.
(Xem: 10276)
Tu là nghệ thuật giúp mình chuyển khổ đau thành hạnh phúc, khi hạnh phúc trở thành khổ đau thì mình có thể chuyển nó thành hạnh phúc trở lại.
(Xem: 10682)
Phật ở khắp nơi. Trên chùa có Phật, nhà ta cũng có Phật. Trong trái tim của mỗi người con đều có Phật. ta cứ làm theo lời phật dạy sẽ thành con nhà Phật,
(Xem: 18058)
Trong đời ác năm trược, con nguyện xin vào trước; Nếu có một chúng sanh nào chưa thành Phật; Thì con sẽ không vào Niết Bàn.
(Xem: 10982)
Cũng giống như bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc sống, điều quan trọng không phải là bạn giàu, hoặc nghèo, bạn khỏe mạnh, hoặc ốm đau,,,
(Xem: 10870)
Đây không phải chỉ là một sự tán dương ca ngợi, mà còn là những điều trân quý, người đời sau cần giữ gìn truyền tụng, nếu chúng ta hiểu rõ nghĩa của những chữ “ẩm thủy tư nguyên” là gì.
(Xem: 10945)
Thế Tôn dạy người tu “chuyên cần niệm Chết”, vì chết là một sự thật, ai cũng đang và sẽ chết!
(Xem: 11877)
Có bao nhiêu người trong chúng ta, khi gặp chuyện gì xảy ra không như ý muốn, thì điều đầu tiên nhất, là kiếm cớ đổ tội cho người khác, cho hoàn cảnh
(Xem: 12402)
Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam.
(Xem: 17946)
Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm.
(Xem: 11964)
Công cuộc giáo hoá độ sanh của Đức Phật thành tựu viên mãn chính nhờ Ngài tu tập Tứ vô lượng tâm đạt đến vô lượng.
(Xem: 10032)
Đạo Pháp (Dhamma) cũng tương tự với ngành Y Khoa. Bạn có thể nhận thấy điều đó qua cách giảng dạy của Đức Phật.
(Xem: 9585)
Về ý nghĩa tùy duyên, thì đây là một chỗ sống, không phải là chỗ lý luận hay chỗ bắt chước, bởi vì khi chúng ta bắt chước thì nó không còn là tùy duyên nữa.
(Xem: 14768)
Tùy duyên bất biến nghĩa là tùy theo cơ duyên mà duyên với ngàn sai vạn biệt, nhưng bản thể của nó vẫn không thay đổi.
(Xem: 9687)
Đạo Phật đặc biệt hướng dẫn hành giả phải giác ngộ, không nên tin một cách mù quáng. Thông hiểu lời Phật dạy, áp dụng trong cuộc sống đạt được lợi lạc, đó là biết tu.
(Xem: 8816)
Trong đạo Phật ta phải biết dứt ác, làm lành bằng cách sửa saichuyển hoá những tâm niệm tham lam, ích kỷ, oán hờn, nóng giận, ngu si, tối tăm, ganh ghét, tật đố thành vô lượng trí tuệtừ bi.
(Xem: 9026)
Dù có gặp phải các khó khăn to lớn đến đâu, thì cũng không nên thối chí, không được tránh né, mà phải phát huy sức mạnh của tâm thức mình.
(Xem: 8976)
Hiến tặng bộ phận cơ thể là một sự thực hành rất quan trọng của Phật Pháp.
(Xem: 8092)
Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.
(Xem: 11924)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10291)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant