Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thánh Ngôn Và Phi Thánh Ngôn

05 Tháng Mười 201905:08(Xem: 5433)
Thánh Ngôn Và Phi Thánh Ngôn

THÁNH NGÔN VÀ PHI THÁNH NGÔN

TRÍCH TỪ BẢN VIỆT DỊCH A-TÌ-ĐẠT-MA TẬP DỊ MÔN TÚC LUẬN
ABHIDHARMA SANGĪTIPARYĀYA PĀDAŚĀSTRA
阿毘達磨集異門足論

blank
***
Thích Phước Nguyên dịch và chú

Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế ISBN: 978-604-89-6649-2
(Trích từ bản dịch Việt, A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận, đã xuất bản, 1/2019, phát hành tại Sách Hà Nội)


Bốn phi Thánh ngôn (I)

Bốn phi thánh ngôn: 1. Không thấy nói thấy; 2. Không nghe nói nghe; 3. Không cảm nhận nói cảm nhận; 4. Không nhận biết nói nhận biết[1].

i. Thế nào là phi Thánh ngôn: không thấy nói thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không thấy nói thấy.

Có ai thực tế đã thấy, nhưng khởi ấn tượng không thấy, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không thấy nói thấy”, vì thực tế người đó đã thấy.

ii. Thế nào là phi Thánh ngôn: không nghe nói nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không nghe nói nghe.

Có ai thực tế đã nghe, nhưng khởi ấn tượng không nghe, mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nghe nói nghe”, vì thực tế người ấy đã nghe.

iii. Thế nào là phi Thánh ngôn: không cảm nhận nói cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không cảm nhận nói cảm nhận.

Có ai thực tế đã cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng không cảm nhận, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không cảm nhận nói cảm nhận”, vì thực tế người đó đã cảm nhận.

iv. Thế nào là phi Thánh ngôn: không nhận biết nói nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không nhận biết nói nhận biết.

Có ai thực tế đã nhận biết, nhưng khởi ấn tượng không nhận biết, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nhận biết nói nhận biết”, vì thực tế người đó đã nhận biết.

 Bốn Thánh ngôn (I)

Bốn Thánh ngôn: 1. Không thấy nói không thấy; 2. Không nghe nói không nghe; 3. Không cảm nhận nói không cảm nhận; 4. Không nhận biết nói không nhận biết[2].

i. Thế nào là Thánh ngôn: không thấy nói không thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế gọi là thánh ngôn: không thấy nói không thấy.

Có ai thực tế đã thấy, nhưng khởi ấn tượng không thấy, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không thấy nói không thấy”, vì thực tế người đó đã thấy.

ii. Thế nào là Thánh ngôn: không nghe nói không nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế gọi là thánh ngôn: không nghe nói không nghe.

Có ai thực tế đã nghe, nhưng khởi ấn tượng không nghe, mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nghe nói không nghe”, vì thực tế người ấy đã nghe.

iii. Thế nào là Thánh ngôn: không cảm nhận nói không cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế gọi là thánh ngôn: không cảm nhận nói không cảm nhận.

Có ai thực tế đã cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng không cảm nhận, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không cảm nhận nói không cảm nhận”, vì thực tế người đó đã cảm nhận.

iv. Thế nào là Thánh ngôn: không nhận biết nói không nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế gọi là thánh ngôn: không nhận biết nói không nhận biết.

Có ai thực tế đã nhận biết, nhưng khởi ấn tượng không nhận biết, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nhận biết nói không nhận biết”, vì thực tế người đó đã nhận biết.

Bốn phi Thánh ngôn (II)

Lại có bốn phi Thánh ngôn: 1. thấy nói không thấy; 2. nghe nói không nghe; 3. cảm nhận nói không cảm nhận; 4. nhận biết nói không nhận biết[3].

i. Thế nào là phi Thánh ngôn: thấy nói không thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: thấy nói không thấy.

Có ai thực tế không thấy, nhưng khởi ấn tượng thấy, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “thấy nói không thấy”, vì thực tế người đó không thấy.

ii. Thế nào là phi Thánh ngôn: nghe nói không nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: nghe nói không nghe.

Có ai thực tế không nghe, nhưng khởi ấn tượng nghe, mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nghe nói không nghe”, vì thực tế người ấy không nghe.

iii. Thế nào là phi Thánh ngôn: cảm nhận nói không cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: cảm nhận nói không cảm nhận.

Có ai thực tế không cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng đã cảm nhận, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “cảm nhận nói cảm nhận không”, vì thực tế người đó không cảm nhận.

iv. Thế nào là phi Thánh ngôn: nhận biết nói không nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: nhận biết nói không nhận biết.

Có ai thực tế không nhận biết, nhưng khởi ấn tượng đã nhận biết, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nhận biết nói không nhận biết”, vì thực tế người đó không nhận biết.

Bốn Thánh ngôn (II)

Lại có bốn Thánh ngôn: 1. thấy nói thấy; 2. nghe nói nghe; 3. cảm nhận nói cảm nhận; 4. nhận biết nói nhận biết[4].

i. Thế nào là thánh ngôn: thấy nói thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế gọi là thánh ngôn: thấy nói thấy.

Có ai thực tế không thấy, nhưng khởi ấn tượng đã thấy, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “thấy nói thấy”, vì thực tế người đó không thấy.

ii. Thế nào là Thánh ngôn: nghe nói nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế gọi là thánh ngôn: nghe nói nghe.

Có ai thực tế không nghe, nhưng khởi ấn tượng đã nghe, mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nghe nói nghe”, vì thực tế người ấy không nghe.

iii. Thế nào là Thánh ngôn: cảm nhận nói cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế gọi là thánh ngôn: cảm nhận nói cảm nhận.

Có ai thực tế không cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng đã cảm nhận, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “cảm nhận nói cảm nhận”, vì thực tế người đó không cảm nhận.

iv. Thế nào là Thánh ngôn: nhận biết nói nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế gọi là thánh ngôn: nhận biết nói nhận biết.

Có ai thực tế không nhận biết, nhưng khởi ấn tượng đã nhận biết, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nhận biết nói nhận biết”, vì thực tế người đó không nhận biết.

Sách đọc thêm: Bản dịch A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận (Phước Nguyên)
Dẫn nhập Tập dị môn luận



[1] Skt. catvāro ’nāryavyavahārāḥ | adṛṣṭe dṛṣṭavāditānāryavyavahāraḥ | aśrute śrutavāditā | amate matavāditā | avijñāte vijñātavāditānāryavyavahāraḥ; Chúng tập: bất thánh ngữ 不 聖 語: 1. không thấy nói thấy; 2. không nghe nói nghe; 3. không cảm thấy, nói cảm thấy; 4. không biết nói biết. Pāli: Aparepi cattāro anariyavohārā—adiṭṭhe diṭṭhavāditā, assute sutavāditā, amute mutavāditā, aviññāte viññātavāditā. Cf. T 12: bốn phi a-duệ-ra hành 非阿曳囉行.

[2] Skt. catvāra āryavyavahārāḥ | adṛṣṭe ’dṛṣṭavāditāryavyavahāraḥ | aśrute ’śrutavāditā amate ’matavāditā | avijñāte ’vijñātavāditāryavyavahāraḥ; Chúng tập: bốn thánh ngôn: 1. thấy nói thấy; 2. nghe nói nghe; 3. hay nói hay; 4. biết nói biết. Pāli: Aparepi cattāro ariyavohārā—adiṭṭhe adiṭṭhavāditā, assute assutavāditā, amute amutavāditā, aviññāte aviññātavāditā.

[3] Skt. catvāro ’nāryavyavahārāḥ | dṛṣṭe ’dṛṣṭavāditānāryavyavahāraḥ | śrute ’śrutavāditā | mate ’matavāditā | vijñāte ’vijñātavāditānāryavyavahāraḥ; Pāli: Aparepi cattāro anariyavohārā—diṭṭhe adiṭṭhavāditā, sute assutavāditā, mute amutavāditā, viññāte aviññātavāditā.

[4] Skt. catvāra āryavyavahārāḥ | dṛṣṭe dṛṣṭavāditāryavyavahāraḥ | śrute śrutavāditā | mate matavāditā | vijñāte vijñātavāditāryavyavahāraḥ; Pāli: Aparepi cattāro ariyavohārā—diṭṭhe diṭṭhavāditā, sute sutavāditā, mute mutavāditā, viññāte viññātavāditā.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18814)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18267)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12965)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13948)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21995)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15768)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20713)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18626)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant