Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Quan Về Giới Học

30 Tháng Mười 201907:05(Xem: 4889)
Tổng Quan Về Giới Học

TỔNG QUAN VỀ GIỚI HỌC

Thích Trung Định

Già Lam  Hương Thiền

Những quy tắc đạo đức có một vị trí rất quan trọng trong hầu hết các tôn giáo. Pháp luật hay các quy ước là đều cần thiết đối với bất cứ thành viên nào trong xã hội.Trong mỗi gia đình nếu khôngquy tắc, gia đình đó sẽ xảy ra bất đồng; một quốc gia, nếu không có phép nước, thì quốc gia đó sẽ nổi loạn. Trong Phật giáo cũng vậy, giới luật đóng một vai trò vô cùng đặc biệt. Giới được xem là mạng mạch của đời sống Tăng già. Vì vậy, trong đời sống sinh họat của Tăng đoàn hầu hết các quy tắc đặt ra là để phòng hộ, ngăn chặn các hành vi, lời nói bất thiện của vị Tỳ kheo do tham lam, sân hận hay si mê chi phối. Giới là để chế ngự các bất thiện pháp, phụng hành các thiện sự, và thanh tịnh các tâm hành.

Giới là một trong Tam vô lậu học, giới, định và tuệ- Con Đường Thanh Tịnh (Visuddimagga) hay Con đường giải thoát (Vimuttimagga), đưa chúng sanh đến bờ an vui giải thoát. Lý do giới được đặt ở đầu tiên và đặc biệt nhấn mạnh là vì giới là nền tảng của tất cả các thành tựu tâm linh. Chính Đức Phật đã xác tính với môn đệ của mình rằng giới luật là nền tảng của sự tiến bộ tâm linh. ‘Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ’. Sự hoàn hảo trong giới đánh dấu giai đoạn đầu tiên trong sự phát triển đời sống tinh thần của người đệ tử Phật. Những lời khích lệ của đức Phật với chúng đệ tử trong vấn đề tuân thủ giới luật được tìm thấy nhiều trong kinh tạng Nikāya, đôi khi Đức Phật dạy cho từng cá nhân nhưng có khi ngài giáo giới cho toàn bộ đại chúng. Điều này cho thấy rằng giới luật là nền tảng căn bản của nếp sống thiền môn. Công việc đầu tiên của người tu tập là phải thọ trì giới pháp để thực hành, nhằm điều chỉnh lại các oai nghi chánh hạnh theo tinh thần giới luật, gạt bỏ những thói hư tật xấu để hoàn thiện tư cách tác phong của người xuất gia học đạo.

Ý nghĩa giới học

Giới (sīla), cả hai ngôn ngữ Pāli và Phạn đều dùng thuật ngữ sīla. Về Phạn bản, tác giả Arthur Anthony Macdonell định nghĩa: “Giới là thói quen hay tập quán, phong tục, sự thu thúc, đặc tính, hành vi, sự ứng xử tốt hay thói quen, tính cách cao thượng, ngay thẳng, quy tắc đạo đức…” Về Pāli ngài Buddhadata Mahathera định nghĩa: “Giới là sự tự nhiên, thói quen, đạo đức, thực hành, giới luật.”[1] Giới theo nguyên nghĩa của nó là tự nhiên, là thói quen. Do vậy, giới vốn là thực tại với quy luật vận hành, nếu hành động trái với quy luật tự nhiên thì gặp trở ngại. Qua đó, ta hiểu rằng, giới là chuẩn mực để đánh giá hành động đúng hay sai, điều gì nên làm và điều gì không nên làm, để thoát khỏi mọi trói buộc khổ đau. Giới được định nghĩa là phòng phi chỉ ác và chỉ ác tác thiện. Như Đại Trí Độ Luận nói: “Dứt ác không làm trở lại gọi là giới.”[2]

Theo Từ điển của Rhys Davids cắt nghĩa, giới (sīla) có gốc từ ngữ căn Sìl. Ngữ căn Sìlhai nghĩa: Upadhāranā (luân lý, đạo đức của Phật giáo, cách cư xử, tư cách đạo đức) và samādhi (định, thiền). Do vậy mới có thuật ngữ Định cộng giới, và Đạo cộng giới, vì khi ở trong thiền định tam nghiệp luôn thanh tịnh thì đó là giữ giới.[3]

Giới cũng được dịch là Thanh Lương, nghĩa là mát mẻ, vì giới có công năng dứt ba nghiệp quấy ác thiêu đốt. Thanh Tịnh Đạo Luận giải thích rằng: “Sự tránh xa cực đoan mê đắm dục lạc được nêu bằng giới. Giới là phương tiện để vượt khỏi các đọa xứ, đề phòng sự vi phạm những điều ô nhiễm và thanh lọc những ô nhiễm do tà hạnh.”[4]

Giới được gọi như thế là vì nó có nghĩa của sự kết hợp, kết hợphai nghĩa: một là phối hợp, chỉ sự không bất nhất trong ba nghiệp thân, khẩu, ý nhờ đức hạnh, hai là nâng lên, nghĩa là giới là nền tảng cho các thiện pháp.[5] Thuật ngữ ‘giới’(sīla) bao gồm các nội dung tương tự khác như sự kiềm chế (saṁvara) và bất hại (civitikama). Các chức năng của giới có hai ý nghĩa: (1) hành động để ngăn chặn hành vi sai trái và (2) thực hành hoàn thiện các việc lành. Biểu hiện của nó (paccutthāma) là một sự kết hợp của hai đức tính tàm và quý (otappa). Vì tàm và quý là nhân gần của giới. Khi tàm quý có mặt thì giới phát sinh và tồn tại, ngược lại nếu khôngtàm quý thì sẽ hành động như cầm thú.

Giới còn có hai nghĩa: Tác trì (caritta), và chỉ trì (varitta). Giới tác trì dựa trên thực tế phát triển điều lành; và giới chỉ trìdựa trên tránh làm việc ác. Nói cách khác, tất cả các quy tắc đạo đức, là những hình thức tích cực nên được bao gồm trong giới tác trì. Tất cả các giới luật bao gồm tránh những tệ nạn, giết hại, trộm cắp vv được trong các hình thức tiêu cực có thể được bao gồm trong giới chỉ trì.

Chữ Giới trong Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Sk: Prātimoksa, Pāli: Patimokkha) có nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát, Tùy thuận giải thoát. Biệt giải thoátgiải thoát từng phần: giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận giải thoátgiải thoát tùy thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người hành trì.

Trong Thanh Tịnh Đạo Luận, ngài Phật Âm định nghĩa: “Giới là gì? Đó là các pháp khởi từ Tư Tâm Sở (cetanā) hiện hữu với một người từ bỏ sát sanh,v.v. hay nơi một người thực hành viên mãn các học giới (vatta). Patisambhidā nói: ‘Giới là gì? Có giới là tư tâm sở (cetanā), có giới là các tâm sở, thọ, tưởng, hành (gọi chung là cetasika), có giới là sự chế ngự, có giới là không vi phạm.[6]

Theo ngài, giới có nghĩa là chế ngự theo năm cách như sau: Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba la đề mộc xoa; chế ngự bằng tỉnh giác; chế ngự bằng tri kiến; chế ngự bằng kham nhẫn; chế ngự bằng tinh tấn. Giới có nghĩa là kết hợp, vì nó kết hợp ba nghiệp thân, khẩu, ý, hướng đến con đường thánh thiện. Giới có nghĩa là nền tảng, vì nó làm cơ sở cho các thiện pháp phát sinh. Giới còn có nghĩa là thanh lương, vì nó làm cho người giữ giới cảm thấy thân tâm mát mẻ.[7]

Kinh Di giáo trong phần trì giới bao gồm các mục như sau: 1. Kiềm chế tâm (controlling the mind); 2. Ăn uống điều độ (eating & drinking temperately); 3. Tiết chế ngủ nghỉ (sleeping strictedly); 4. Kiểm soát sự nóng giận (controlling the anger); 5. Kiềm chế tính tự buông thả (controlling the self-indulgence); 6. Bỏ đi tính xu nịnh (quitting of flattery); 7. Giảm thiểu dục vọng (lessening of desires); 8. Biết đủ (being satisfied enough).

Qua các định nghĩa trên, giúp chúng ta hiểu rõ vai tròý nghĩa của giới luật. Vì người thực hành giới sẽ đạt được ba mục tiêu:  không làm các điều ác (chư ác mạc tác), làm các việc lành (chúng thiện phụng hành), giữ tâm ý thanh tịnh, loại bỏ hết các lậu hoặc (tự tịnh kỳ ý).[8] Đó cũng là mục tiêu tối thượng của bất cứ ai thực hành theo Phật giáo.

Do vậy, trong lời bài kinh cuối cùng trước lúc Thế Tôn diệt độ, Ngài ân cần căn dặn chúng đệ tử rằng: “Này các Tỳ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như người mù mà được mắt sáng, nghèo mà được ngọc quý. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy. Người xuất gia luôn lấy giới luật làm cương lĩnh tu tập để chuyển hóa thân tâm, trang nghiêm huệ mạng. Tăng đoàn phát triển đều do nương vào giới luật để thiết lập sự hòa hợpthanh tịnh. Như vậy, giới luật nhằm ổn định quy củ Thiền môn, là áo giáp phòng chống giặc phiền não, là đạo quân tiên phong mở cánh cửa giải thoát. Do vậy, cả hai truyền thống Phật giáo Nam tạng cũng như Bắc tạng đều xác quyết tầm quan trọng của giới luật rằng: ‘Giới luật là Đấng đạo sư’ và một bên thì khẳng định ‘Nếu ta ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy’ đủ để thấy tầm quan trọng của giới luật như thế nào.

Ba la đề mộc xoa (Patimokkha)

Ba đề mộc xoa (tiếng Phạn: Prātimoksa; Pāli: Patimokkha) chứa các giới điều của Giới bổn Tỷ kheogiới bổn Tỷ kheo ni, còn gọi là giới cụ túc. Thuật ngữ này được dịch là ‘biệt giải thoát’. Do đó, nó liên quan đến nhiệm vụ của Phật giáo để giải thoát cá nhân con người ra khỏi khổ đau mà người đó phát nguyện thọ trìthực hành theo tông chỉ của giới bổn ấy. Prati có nghĩa là ‘hướng tới’, và mokṣa nghĩa là ‘giải thoát khỏi vòng luân hồi’ (saṃsāra). Như vậy Patimokkha là hướng tới sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Theo Tạng luật Đại phẩm (Mahavagga), Patimokkha có nghĩa là ‘sự khởi đầu, người đứng đầu (hoặc mở lối), các quan trọng nhất (pamukha) phẩm chất khéo léo, hay thiện xảo.’ Ý nói thiện xảo trong sự phòng hộ. Thuật ngữ này không chỉ đơn giảnbao gồm các giới điều để tuân thủ, mà còn của một bài giảng trong đó Đức Phật liệt kê các nguyên tắc cơ bản chung cho các giáo lý của tất cả chư Phật. Do đó, từ nguyên của thuật ngữPatimokkha đều biểu thị một tập hợp các nguyên tắc cơ bản để thực hành đạo đức tâm linh.[9]

Theo Suttavibhaṅga, Patimokkha nghĩa là tự do khỏi tội lỗi nên có tên như vậy. Điều này dẫn tới nguồn gốc của từ pati - (pati) Mokkha. Rhys Davids và Oldenberg, sau đó là Childers, cùng quan điểmPati (Skrt., Prati) + muc, nó có nghĩa là ‘gánh nặng được trút bỏ xuống, để đón nhận sự tự do giải thoát’. Trong Thanh Tịnh Đạo Luận Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) cũng định nghĩa như vậy, nó xuất phát từ muc, trong ý thức được miễn phí từ sự trừng phạt của (địa ngục) và khổ đau trong luân hồi sinh tử.[10]

Theo pāli nguồn, Patimokkha có ba nghĩa:

-Ba la đề mộc xoa được định nghĩa là: cái khởi đầu, là bộ mặt (mukhaṃ), nó là nguyên tắc (pāmukhaṃ) của các phẩm chất tốt; do đó, nó được gọi là ‘Pātimokkhaṃ.

-Bất cứ ai tuân thủ các quy tắc của giới bổn Ba la đề mộc xoa người đó sẽ được giải thoát khỏi khổ đau trong tam đồ ác đạo, vì vậy nó được gọi là Ba la đề mộc xoa.

-Nó là phẩm chất cao nhất, tuyệt vời nhất, là giới cụ túc, đưa người lên Bậc trên.[11]

S. Dutt cho rằng Patimokkha nghĩa là ‘sự thu thúc’. Ông coi đó là một mối quan tâm bên ngoài của Tăng đoàn nhằm gắn kết các thành viên đệ tử của Đức Phật vào trong sự thanh tịnh hòa hợp. Trong khi, Rhys Davids và Stede nói rằng nó có nghĩa là ‘ràng buộc, bắt buộc, nhiệm vụ’. Tức để cho các Tỷ kheo ý thức hơn trong hành vi cử chỉ của mình. Tiến sĩ E.J. Thomas, nói rằng Patimokkha trong hình thức là một tính từ được hình thành từ ‘pati-muc’ nghĩa là ‘ràng buộc’, buộc chặt lại với nhau như một chiếc áo giáp. (Ý nói người chiến sĩ ra trận mà có áo giáp thì không sợ gươm dao, cũng vậy người xuất gia khoác lên mình chiếc áo giáp của giới bổn Ba la đề mộc xoa thì không sợ giặc phiền não tham, sân, si khuấy rối. Do đó Tỷ kheo có nghĩa là Bố ma (ma chúng khiếp sợ) và phá ác (diệt giặc ác) là vậy, nên nó có nghĩa là ‘sự liên kết, bắt buộc.’[12]

Tóm lại, Giới bồn Ba la đề mộc xoa là những vấn đề cốt lõi của Suttavibhaṅga. Danh sách các quy tắc, hoặc danh sách các khóa học đào tạo, đã được đọc tụng hai lần trong một tháng vào dịp lễ Bố tát được tổ chức vào ngày Sóc, Vọng hàng tháng.

 Luật (vinaya)

Luật Tạng được tạo thành từ các nguyên tắc kỷ luật đặt ra cho việc điều chỉnh các hành vi của các đệ tử của Đức Phật. Nó chứa các quy tắcquy định về việc quản lý của Giáo hội Tăng già, và các quy tắc áp dụng cho các hành vi trong cuộc sống hàng ngày của Tăng. Những quy định về việc tiếp nhận đệ tử gia nhập vào Tăng đoàn; những nghi thức sám hối, giải tội; những quy định về pháp an cư, nhà ở, quần áo, thuốc chữa bệnh, và các thủ tục pháp lý trong trường hợp ly giáo, cũng được bao gồm trong đó. Tất cả những quy định này đều do Đức Phật ban hành trong những dịp khác nhau và kết thành bộ luật tạng đầy đủ.[13]

Mặc dù Luật (vinaya) đã được dịch bởi từ ‘Kỷ luật’ (Discipline), tiếng Anh không thể chuyển tải đầy đủ hương vị của thuật ngữ Vinaya, vì nó có nghĩa đen là ‘cái gì đó được dẫn dắt’. Dẫn ra khỏi những gì? Dẫn ra khỏi khổ đau, đau khổ của tất cả các trải nghiệm trong vòng sinh tử luân hồi. Vì vậy, Luật làm giải thoát những người thực hành theo nó, giải thoát tam nghiệp thân khẩu ý trói buộc chúng sanh trôi lăn trong sinh tử. Trong khi đó mục đích của luật là nhằm ngăn chặn các bất thiện pháp từ bên ngoài vào hay bên trong khởi lên; mặc khác nó làm thanh tịnh tâm từ các pháp nhiễm ô, tạo điều kiện cắt dứt phiễn não, lậu hoặc.

Ý nghĩa thực tế của từ ‘vinaya’ là: Thoát ra, bãi bỏ, tiêu hủy hoặc loại bỏ một cách công khai về những hành vi gây cản trở sự tiến bộ trên con đường thực hành chánh pháp. Nó có công dụng như những hướng dẫn cần thiết để nghiêm trì giới cấm, đồng thời là những phương thức xử lý hữu hiệu các sự vi phạm giới pháp. Nếu nói một cách tách bạch thì Luật bao hàm cả giới, còn Giới chỉ là một bộ phận của Luật. Nhưng nói một cách khái quát thì Giới, Luật tuy gọi khác nhau mà cùng chung một tính chất, vì thế nên có tên ghép là Giới luật.

Tóm lại, giới họcchi phần vô cùng quan trọng trong tam vô lậu học. Thành tựu giới là bước đi đầu tiên mở cánh cửa đi vào giác ngộ, giải thoát. Giới còn được xem là mạng mạch, huyết quản của Phật pháp. Vì, “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, giới luật còn thì Phật pháp còn, giới luật diệt thì Phật pháp diệt.” Hành giả tu học mà không đứng trên đất của giới thì các bước tiếp theo sẽ khó để thành tựu. Thực hành giới là thiết lập một đời sống đạo đức căn bản, và thành tựu thiền địnhtrí tuệ đưa đến an lạc giải thoát, niết bàn. “Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để được hân hoan, hân hoan để được hỷ, hỷ để được khinh an, khinh an để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn.”[14]

 Ghi chú:

[1] Harcharan Singh Sobti, Nibbāna in Early Buddhism, Delhi: Eastern Book Linkers, 2011, p. 42.

[2] Thích Thiện Siêu, Đại Trí Độ Luận, Tập 1,  chương 22, Giải thích nghĩa của giới tướng, Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam, 1997.

[3] T.W. Rhys Davids and William Stede, Pāli-English Dictionary, Motilal Banarsidass, Delhi, 2003, p. 712.

[4] Bhadantācariya Buddhaghosa, Visuddhi- Magga, Bhikkhu Náóamoli (tran.s), The Path of Purification, Columbo, Buddhist Publication Society, 2010, p. 9.

[5] Thích Nữ Trí Hải, Thanh Tịnh Đạo, tập 1, trang 15.

[6] Thích Nữ Trí hãi, Dich, Thanh Tịnh Đạo Luận, Chùa Pháp Vân Ấn Hành, 1992, tr. 13.

[7] Sđd, tr. 14-15.

[8] N. V. Banerjee (trans), The Dhammapāda, verse 183, Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1989,  p.103.

[9] The Buddhist Monastic Code I, The Patimokkha Rules, Translated & Explained by Thanissaro Bhikkhu (Geoffrey DeGraff), The Abbot Metta Forest Monastery P.O. Box 1409, Valley Center, CA 92082 U.S.A, 1994, p. 27.

[10] I.B. Horner, M.A, The Book of the Discipline (Vinaya-Piṭaka), vol. 1, Suttavibhaṅga, London: The Pali Text Society, 1982, p. xiii.

[11] See, W.Pachow, A Comparative Study of the Prāṭimokṣa, Delhi: Motilal Banarsidass, 2000, p.4-5.

[12] I.B. Horner, M.A, The Book of the Discipline (Vinaya-Piṭaka), vol. 1, Suttavibhaṅga, London: The Pali Text Society, 1982, p. xiii.

[13] Bimala Churn Law, A History of the Pāli Literature, Delhi: Idica Book, 2000, pp.68-69.

[14] See, Bhadantácariya Buddhaghosa, Visuddhi Magga, Bhikkhu Náóamoli (tran.s), The Path of Purification, Buddhist Publication Society,Columbo, 2010, p.48.

 

Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 331.

Thích Trung Định
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8959)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8988)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8640)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 12137)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10901)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
(Xem: 10615)
Ai tạo ác nghiệp thì sẽ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷsúc sinh. Nhất là tạo những nghiệp ác nặng nề thì chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục.
(Xem: 13490)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.
(Xem: 8382)
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai.
(Xem: 10286)
Cá ở trong lưới mà nhảy ra được, mới thật là hay. Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Thoát khỏi cạm bẫy cuộc đời thật là khó vô cùng, nhưng người có ý chíquyết tâm cao độ sẽ làm được chuyện này.
(Xem: 8793)
Tâm giác ngộ là một thể trạng của tâm có nhiều thành phần với nó. Khi chúng ta phát tâm giác ngộ, nó có hai phương diện.
(Xem: 9853)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn...
(Xem: 10384)
Mọi người chúng ta đều than cuộc sống là đau khổ..., người nghèo có cái khổ của người nghèo, người khá giả có cái khổ của người khá giả.
(Xem: 10197)
Hãy dành ít thời gian suy nghĩ về bảy bí quyết này. Đừng gạt chúng qua một bên để làm chuyện khác, mà hãy áp dụng những bí quyết này vào cuộc sống của bạn.
(Xem: 9014)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chínghị lực.
(Xem: 22567)
Nhân dáng từ bi của quý Ngài thường xuyên biểu hiện trong suốt 2 tuần qua đã biến ngôi già lam thanh tịnh này trở thành một ngôi thánh địa uy nghiêm bởi lời kinh tiếng kệ...
(Xem: 10294)
Đạo Phật có nhiều truyền thống cũng như vô lượng pháp môn tu. Nhưng dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cách thức nào thì nội dung tu tập vẫn không ngoài Chỉ và Quán.
(Xem: 12065)
Nụ cười của Đức Phật trên các pho tượng phản ảnh cho tâm an nhiên, tự tại. Cũng thế, các vị đại sư dành hết cuộc đời mình tu tập...
(Xem: 14251)
Bố thí là hạnh đầu tiên theo lời Phật dạy hay còn gọi đầy đủ là hạnh buông xả. Bố thí là cho, biết cho,là trao tặng, là giúp đỡ sẻ chia hay mở lòng rộng lượng
(Xem: 11190)
Vào một kiếp xa xưa, Bồ-tát (tiền thân đức Phật) sanh làm một con chim cút, thủ lĩnh của hàng ngàn con chim cút sống ở trong rừng.
(Xem: 9932)
Cuộc đời đầy những bài học cho ta tu tập, nếu ta có đủ kiên trì.
(Xem: 18944)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ.
(Xem: 10553)
Hãy ngồi thẳng một cách thoải mái, không nghiêng về phía trước hay sau, trái hay phải. Hãy nhắm mắt lại, và hãy nghĩ với các niệm thiện lành.
(Xem: 10721)
Đức Phật dạy vạn pháp vô ngã, vô thường. Thân con người còn không thật có (vô ngã, do duyên sinh), huống chi là tài sản của cải là vật ngoài thân.
(Xem: 11794)
“Chỉ là nắm tro” không phải là một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một thực tế. Thực tế ấy tôi đã chạm mắt, đã sờ mó được.
(Xem: 10218)
Vì là cá nhân mỗi người thụ hưởng hoan hỉ hay đớn đau, tạo rắc rối và tích tập nghiệp báo – tất cả sự ồn náo và rối rắm được làm ra bởi tự ngã
(Xem: 11362)
Sự quan tâm giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tính đạo đức nhân văn cao cả mà chúng ta ai cũng có thể làm được.
(Xem: 8930)
Phật dạy, nếu người có hiểu biết chân chính sẽ tôn trọng chân lý, khi đưa ra một ý nghĩ gì đều nói “đây là suy nghĩ của chúng tôi”,
(Xem: 12844)
Chúng ta đều biết, đạo Phậttrung đạo. Đức Phật cũng nhờ tránh xa hai cực đoan dục lạckhổ hạnhthành tựu đạo quả.
(Xem: 10542)
Người ta khó chấp nhận việc đột tử của người thân là vì họ vừa có mặt hôm nay ở đây, rồi bỗng ngày hôm sau không có mặt.
(Xem: 11147)
Nguyện cầu Tam Bảomười phương chư Phật chứng giám cho lòng thành của chúng em; cầu mong hương linh Anh được an lạc nơi tịnh thổ.
(Xem: 17351)
Chúng ta đừng nên hứa một điều gì với ai khi đang vui. Bởi vì lời hứa ấy có thể làm cho người khác thất vọng, vì ta hứa mà không làm được.
(Xem: 10755)
Tất cả mọi người đều biết khổ - nhưng không thật sự hiểu khổ. Nếu thực sự hiểu khổ thì chúng ta đã có thể chấm dứt khổ.
(Xem: 10252)
Sẻ chia, cho đi một phần mình đang có, là hạnh tu phổ biến của hàng Phật tử. Nhờ cho đi, không cố nắm giữ mà thành tựu phước báo đủ đầy, an vui trong hiện tạivị lai.
(Xem: 11455)
Con người ta có nhiều cái sợ, như sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ vợ hay chồng bỏ, sợ thất nghiệp, sợ nghèo, sợ đói, sợ nhiều thứ...Trong những cái sợ này có cả sợ ma.
(Xem: 16496)
Tôi giống như đang đứng ở khúc cuối của con đường cùng, sau hai mươi sống trong tu viện. Tôi đã cống hiến bản thân mình, siêng năng tu tập, cùng tuân thủ theo giới luật của tu viện.
(Xem: 12693)
Học cách hiểu thất bại thế nào là một kỹ năng ít được nói đến, nhưng lại rất cần trong cuộc sống.
(Xem: 16635)
Dưới ánh sáng tỉnh thức, bạn sẽ biết rõ mình đang làm gì, đang đi đâu và về đâu. Và rồi bạn sẽ tự vén lên những bức màn bí ẩn của thân phận và cuộc sống bằng chính năng lực tỉnh thức của mình.
(Xem: 25019)
Buông bỏ là một trong những bài học đầu tiên chúng tôi được Hòa thượng Ân sư dạy. Tiêu đề Ngài dạy chung cho tất cả anh em là: “Các chú phải buông bỏ”.
(Xem: 9220)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả.
(Xem: 11737)
An là an tịnh nội tâm, còn Cư là kỳ hạn cư trú trong suốt một thời gian nhất định nào đó, mà theo giới luật là ba tháng.
(Xem: 9881)
Khi đến tu viện, các nhà sư và các sư cô mới vào tu, thường hỏi vị sư trụ trì hướng dẫn cách thực hành Con Đường Giải Thoát.
(Xem: 11503)
Quên cái danh thì tự khắc sẽ được an vui. Quên mình đi thì kẻ khác ắt có hạnh phúc. Vui với thành công của người thì niềm vui tăng mãi. Thương yêu tất cả thì lòng hóa vô biên.
(Xem: 9548)
Tôi chẳng làm gì cả. Sự-nhận-biết-về-cái-tôi của tôi đã bị quét sạch đi, từ ngày rất xa xưa rồi. Giờ đây, không còn "cái Tôi" để làm gì cả.
(Xem: 15563)
Tâm của con cũng như vậy. Khi rối loạn, hãy để yên. Rồi chờ một lát. Rối loạn tự ngừng lại. Con không cần gắng sức. Bình yên sẽ đến. Mà không cần làm gì cả.
(Xem: 10745)
Nghe chuông phiền não nhẹ lâng lâng Bồ đề thêm lớn Tuệ sáng ngần Xa rời địa ngục qua hầm lửa Nguyện thành như Phật độ chúng sanh.
(Xem: 14811)
Lễ bái là một pháp tu phổ biến trong đạo Phật. Thường thì chúng ta lễ Phật, các vị Bồ-tát, chư vị Tổ sư để thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn...
(Xem: 10755)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc.
(Xem: 11419)
Trong những năm gần đây, tình hình bão lũ, động đất, sóng thần xảy ra khắp mọi nơi với cường độ càng ngày càng mạnh có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của rất nhiều người và động vật.
(Xem: 8766)
Trong đạo Phật nguyên thủy Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên để chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người.
(Xem: 9774)
Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của bản thângia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant