Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

12 Tháng Giêng 202018:23(Xem: 4656)
Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ 

 Thích Nữ Huệ Trân

Làm Thế Nào

Vạn Hạnh dung tam tế
Chơn phù cổ sấm
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ”      

Đây bài kệ đầy cảm kích, vua Nhân Tông đã làm để truy tán Thiền- Vạn Hạnh, nhà đã mang đạo vào đời, góp phần cực kỳ quan trọng dựng nên triều , một triều đại dân giầu nước mạnh suốt hơn hai trăm năm trong chiều dài lịch sử vàng son của dân tộc Việt Nam. Thầy Huyền Không đã dịch bài kệ ngắn, ghi dấu ấn công đức lượng này như sau:

Vạn Hạnh thông ba cõi
Thật hợp lời sấm xưa
Quê nhà tên Cổ Pháp
Gậy chống giữ nghiệp vua

Một nhà chân trần, áo vải, ôm bình bát du hóa đó đây góp công trị nước an dân, không phải chỉ hơn hai trăm năm triều ảnh hưởng còn sâu đậm đến ngày nay, thoạt nghe như huyền sử thần thoại, sự thật còn bi tráng gấp bội thần thoại.

Đạo pháp luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc; khi đất nước thái bình, đạo vun bồi, nuôi dưỡng đời sống tâm linh trăm họ; khi đất nước suy vong, đạo chia xẻ đau thương qua hình ảnh những Bồ Tát hóa thân lịch sử đã chứng minh, không thời nào không nếu chúng ta khai mở trí tuệ để nhìn bằng tuệ nhãn.

Thời tiền Vạn Hạnh như thế nào Sử Việt những trang  đại hùng, đại lực, đại từ bi cho cả một triều đại huy hoàng hơn hai trăm năm như thế?

Địa danh Cổ Pháp, được ghi nhận nơi chào đời, đặc biệt để trở thành linh địa?

Bối cảnh thời vua Đại Hành rối ren thế nào phải xuống núi?  

Thiền- Vạn Hạnh người làng Cổ Pháp, thuộc phủ Thiên Đức, sinh ra trong một gia đình mộ đạo Phật. Từ thuở ấu thơ Ngài đã tỏ lộ sự thông minh xuất chúng, làu thông kinh sử, liễu ngộ Lão Giáo, Nho Giáo nhưng thay vi bị ép trong giáo điều, Ngài đã uyển chuyển kết tụ những tinh hoa của Lão, của Nho, hòa hợp với tinh thần từ bi, giác ngộ, của Đạo Phật, tự khai mở cho mình con đường hành trì ưu việt, vừa chấn hưng Đạo Pháp, vừa cứu nước độ dân

Với sự khai mở tuyệt luân đó, Ngài đã chính thức xuất gia năm vừa 21 tuổi. Sự kiện xuất gia tuổi thành niên, thay từ thơ ấu, phải chờ dấu mốc của sự chín chắn, hay, với bản chất trí tuệ vượt bực hơn người, Ngài  chọn quyết định xuất gia như một sứ mạng nhìn thấy trước phải đi bằng đường Đạo mới cứu được đường đời?

Theo tài liệu lịch sử thì tình trạng đất nước Việt Nam thật suy đồi khi vua Đại Hành đã già yếu vẫn chưa lập Thái tử nối ngôi, trong khi nhà vua rất nhiều con trai ai cũng rấp ranh thừa kế ngai vàng. Mầm tranh chấp, hỗn loạn đã thấy , chưa kể sự áp bức, đô hộ thường xuyên của Bắc phương.

Những vị anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, khi can trường đứng lên chống ngoại xâm thường phải đến cửa chùa, tìm minh để vấn kế, trong thời buổi nhiễu nhương đó, nhiều nhân tài đã phải ẩn thân chốn am thiền để chờ thời cứu dân giúp nước. Ngay như vua Đại Hành cũng được sự trợ giúp của Pháp Thuận, một vị thuộc thiền phái Ti Ni Đa Lưu Chi, đời thứ mười.

Sau khi xuất gia, Vạn Hạnh hoằng hóa đó đây, tra cứu, tìm tòi kinh điển để dịch thuật, phổ biến rộng rãi thêm trong dân gian. Nhưng đó chưa phải mục đích duy nhất của một người uyên bác, không chỉ phụng sự Đạo Pháp còn hành trì Bồ-tát-hạnh trước tai ương thống khổ của đất nước, của dân tộc.

Một buổi chiều, khi Vạn Hạnh dừng chân trước chùa Cổ Pháp, lòng bỗng dưng nao nức lạ kỳ, không phải cây hoa gạo đang trổ bông đỏ rực góc sân chùa, không phải ngọn tháp rêu phong phủ đầy thông khô, cũng không phải tàng-kinh-các im sững ẩn dụ muôn lời-không-lời, không gian phảng phất hào khí của bình Nam dẹp Bắc, của thanh gươm-trí-tuệ Văn Thù.

Vạn Hạnh bước vội qua cổng tam quan thì được Khánh Vân đích thân ra đón. Hai vị đảnh lễ nhau rồi cùng bước vào trai đường. Vạn Hạnh nôn nóng hỏi ngay:

       - Lâu nay chùa ta lạ không?

       - Thưa huynh, đệ vẫn ngày đêm lo kinh kệ, chăm bón dăm luống cải, ít gốc hoa thôi.

       Vạn Hạnh nhìn quanh quất, hỏi tiếp:

       - Sao vắng vẻ quá! Tiểu Công Sơn đâu rồi?

       - Thưa huynh, tiểu Công Sơn đi xách nước còn tiểu Công Uẩn thì đi nhặt củi chưa về.

       Vạn Hạnh nhướng mày, hỏi:

       - Tiểu Công Uẩn? đệ thêm một tiểu nữa ư? Hồi nào thế?

       Khánh Vân vừa rót trà vừa trả lời:

       - Đã lâu huynh không ghé qua nên đệ chưa dịp nói. Tiểu Công Uẩn đứa bị thân nhân đem bỏ trước cổng chùa, đệ nhờ làng xóm tìm tông tích cha mẹ của , năm này tháng khác vẫn bặt âm tín nên đành nuôi trong chùa, lấy họ của đệ họ đặt Công Uẩn. Cũng may, đứa này rất thông minh đĩnh ngộ, kinh kệ học đâu nhớ đó văn chương ứng đáp phần vượt xa tiểu Công Sơn.

       Vừa lúc đó, một chú tiểu ôm củi bước vào sân chùa. Khánh Vân gọi:

       - Công Uẩn, vào chào đi con.

       Công Uẩn đặt củi ngoài sân, vào trai đường, vòng tay thưa:

       - Tiểu Công Uẩn xin cung kính đảnh lễ Phụ.

Vạn Hạnh nhìn chú tiểu nhỏ. Cảm giác nao nức lạ kỳ khi vừa dừng trước cổng chùa lại dấy lên, mạnh mẽ, hoan lạc, cảm kích biên. Cảm giác này đang xoáy mạnh vào lời trăn trối của Thiền Ông, rằng Cổ Pháp linh địa, nơi đây sẽ người anh hùng họ xuất hiện cứu đạo, cứu đời.

Thiền Ông nổi tiếng uyên thâm về phong thủy, địa , đã hết lòng truyền dạy cho đệ tử mình Vạn Hạnh nên bấy lâu nay, Vạn Hạnh đã âm thầm ôm mối u uẩn, lang thang đó đây, tìm tòi chứng nghiệm lời căn dặn của phụ mình tin rằng đã được ân cần truyền lại từ đời Định Không, thuộc dòng thứ ba của thiền phái Ni Đa Lưu Chi.

Tiểu Công Uẩn đã khuất sau cửa trai đường Vạn Hạnh vẫn ngồi lặng, tách nước đã cạn lòng bừng bừng cháy khát.

Cảm nhận được điều nghiêm trọng, Khánh Vân đứng lên, đóng cửa phòng, sẵn sàng nghe lời chỉ giáo của huynh.

Tới giờ tụng Sám Hối, cửa vẫn đóng. Tiểu Công Sơn bồn chồn lo lắng nhưng không dám . Tiểu Công Uẩn thì bình tĩnh lên chánh điện, thắp nhang lạy Phật rồi an nhiên thiền tọa.

       Sáng sớm hôm sau, Tiểu Công Uẩn vâng lệnh phụ, theo Vạn Hạnh về chùa Lục Tổ để được tu tập, rèn luyện thêm về giáo pháp cũng như văn học.

       Khánh Vân gạt lệ nhìn theo người đệ tử hết lòng thương yêu nhưng không thể ích kỷ giữ mãi bên mình biết rằng Công Uẩn theo Vạn Hạnh sẽ phát triển được trọn vẹn tài trí tiềm ẩn trong tâm hồn tràn ngập từ bi khí phách.

Tuy Khánh Vân rất đơn giản, chất phác, nhưng cũng nhận ra khí khái kỳ diệu nơi Công Uẩn. tâm sự với Vạn Hạnh rằng, một lần, tiểu Công Uẩn phạm lỗi, tuy lỗi nhỏ thôi nhưng vẫn bị phạt quỳ hương dưới bệ thờ. Tình cờ, đi ngang qua, nghe Công Uẩn xuất khẩu thành thơ, chỉ hai câu làm giật mình kinh hãi.

Khi Khánh Vân nói lại hai câu thơ đó, chính Vạn Hạnh cũng sửng sốt:

 “Đêm khuya chân mỏi không dám duỗi
Chỉ sợ sơn tắc nghiêng

Thời gian qua như bóng câu, vị tu sỹ trẻ không phụ lòng thầy Bổn-, thầy Y-chỉ.

Công Uẩn luôn hiển lộ trí tuệ tuyệt luân tâm từ bi lượng nên được sự ngưỡng phục từ triều đình tới dân chúng khắp nơi. Chưa ba mươi tuổi, Công Uẩn được tiến cử giữ chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ huy sứ Vạn Hạnh vị cố vấn như bóng với hình.

Tháng ba năm Ất Tỵ, vua Đại Hành băng . Thái tử Long Việt được làm lễ đăng quang nhưng không lâu bị em thái tử Long Đĩnh sai bộ hạ ám sát.

Khi sự việc này xảy ra, hầu hết quan lại trong triều đều hoảng kinh, sợ liên lụy nên bỏ chạy hết. Duy chỉ Thân Vệ Công Uẩn lại lo tẩm liệm, chôn cất vị vua vắn số với đầy đủ nghi thức cho một vị quân vương. Hành động can đảm này đã khiến vua Long Đĩnh nể phục vị tu sỹ trẻ, sắc thái nhu hòa tiềm ẩn khí phách song.

Long Đĩnh ông vua tàn bạo, luân một không hai trong sử Việt. Trong triều thì nịnh thần lũng đoạn, bên ngoài thì dân chúng bị hiếp, đói khổ điêu linh, tiếng oán than thấu trời xanh nhà vua vẫn làm ngơ, đắm chìm trong hoan lạc tửu sắc.

Với cái nhìn bén nhạy của người viễn kiến, Vạn Hạnh biết đây chính lúc phải chuẩn bị tạo ra thiên thời, địa lợi, nhân hòa cứu nước cứu dân.

Trong sự sắp đặt đó, chuyện một cây cổ thụ làng Diên Hồng bị sét đánh trốc gốc. Hôm sau, dân làng ra thu dọn thì thấy sau lớp vỏ, thân cây khắc đậm hàng chữ:

Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành

Dân chúng thỉnh cao tăng tới giảng giải thì được biết rằng, chữ Hòa, chữ Đao chữ Mộc viết gộp lại thành chữ ; chữ Thập, chữ Bát chữ Tử viết gộp lại thành chữ . Câu sấm đó, giảng nôm na sụp, thành”, điềm báo trước nhà sẽ tận nhà sẽ chấn hưng đất nước.

Lời sấm được loan truyền mau chóng trong dân gian. Lòng người náo nức chờ sự đổi thay. Đó Nhân hòađã sẵn. “Thiên thời, địa lợi” do chính nghiệp của vị vua tàn ác tạo ra.

Bởi hoang dâm quá độ, vua Long Đĩnh chết sớm, thái tử mới bốn tuổi lên ngôi, mồi ngon cho Bắc phương! Đây chính thời Vạn Hạnh tải Đạo vào Đời, ân cần thuyết phục Công Uẩn noi gương Thang, , dùng trí tuệ uyển chuyển tình thế để cứu muôn dân.

Đồng thuận với Vạn Hạnh các quan đại thần trong triều , quan trọng hơn hết lòng dân khắp nơi thỉnh nguyện.

Cuộc chính biến diễn ra êm , không một sự phản kháng, chống đối nào.

Chú tiểu Công Uẩn, người con rơi, bị bỏ trước cửa Phật được hai vị cưu mang, nuôi nấng, rèn luyện, đã lên ngôi vua, lấy hiệu Thái Tổ, mở đầu triều đại nhà suốt hơn hai trăm năm.

Trong suốt triều đại hoàng kim này, các vị vua nhà đều được truyền thừa tinh thần từ bi của Đạo Phật, lấy lẽ Đạo chăn dân, lấy lòng nhân đối xử với kẻ xâm lăng khi phải phá Tông, bình Chiêm để bảo vệ bờ cõi.

Bồ Tát thường xuất hiện nơi địa-ngục-trần-gian, nơi người hành hạ, hủy diệt người. Lần giở trang sử xưa, ai bàng hoàng tự hỏiĐâu Vạn Hạnh? Đâu Công Uẩn?”

Câu hỏi đó, khi đã khởi lên sẽ như những nhát búa nhức nhối đập mãi, đập mãi quanh ta thành những âm thanh dồn ép, bức phá, buộc chúng ta phải vận dụng tai trần mắt thịt để nghe, để nhìn, đâu Vạn Hạnh, đâu Công Uẩn thời nay?

 Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu, một vạn tiếng kêu gào!” (*)

Mùa thu thường được lấy làm bối cảnh cho những diễm lệ, êm đềm. Vậy mùa thu đây lại mùa tang tóc, mùa của vạn tiếng kêu gào!

Hồn thơ như tiếng kinh chiều, theo giòng sinh mệnh nổi trôi của lịch sử, âm thầm ôm ấp hoài bão tải Đạo cứu Đời. Đó phải con đường gian khổ Vạn Hạnh ngày xưa đã đi không?

 Nghìn năm trước lên núi
Nghìn năm sau xuống lầu
Hạt cải tròn con mắt
Dấu chân người đâu?” (*)

Khổ nạn xoay nhanh như dòng đời, thoắt đây :

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại, bốn vách tường
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn (*)

Theo chân vị Thầy xuống núi tới đây, chúng ta đã thấy phần nào tinh thần tùy duyên hóa độ.

-Vạn-Hạnh hay Tiểu-Công-Uẩn cũng một tấm lòng dâng hiến tải đạo cứu đời; Thanh-Văn-thừa, Duyên-Giác-thừa cũng phương tiện dẫn đến Bồ-Tát-thừa, con đường KHAI TAM HIỂN NHẤT, tu bồi Bồ-Đề-tâm trong trái tim từng người con Phật.

Thế nên, Bồ Tát đã đi vào giữa điêu linh thống khổ của nhân gian với Tâm Từ rộng mở:

Tôi đi chấn chỉnh sơn
Hồng rơi vách đá, sa thị thành(*)

Nam Thanh Lương Địa Quán Thế Âm Bồ Tát.

TN Huệ Trân

(Trầm trước viễn ảnh họa Bắc phương)

                                              

(*) Thơ Thiền Tuệ Sỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10293)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8778)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10320)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10892)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 11964)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8614)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9280)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10018)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11304)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9809)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9349)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10061)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10105)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9280)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13280)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10169)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10470)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10927)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9092)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10277)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10225)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9319)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11021)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15048)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11786)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10116)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12655)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10883)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10401)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10750)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10669)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10549)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9988)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9301)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9349)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11353)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9675)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13063)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12618)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9169)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9550)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9589)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9629)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9176)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8980)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10372)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8593)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8286)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15557)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10800)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant