Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tháng Lịch Sử Người Da Đen, Đọc “Dreaming Me”

17 Tháng Hai 202009:22(Xem: 4150)
Tháng Lịch Sử Người Da Đen, Đọc “Dreaming Me”

 Tháng Lịch Sử Người Da Đen, Đọc “Dreaming Me”

Nguyên Giác

 

Cứ mỗi tháng 2 dương lịch, Hoa Kỳ lại đón mừng Tháng Lịch Sử Da Đen (Black History Month), nhằm vinh danh thành quả của người da đen Hoa Kỳ, một truyền thống lần đầu tổ chức vào năm 1926 bởi sử gia Carter G. Woodson và kéo dài tới bây giờ.

Đặc biệt trong năm 2020, Tháng Lịch Sử Da Đen mang thêm một ý nghĩa là kỷ niệm 150 năm Tu Chánh Án Thứ 15 (Fifteenth Amendment), nội dung cho người đàn ông da đen quyền đi bầu cử, cũng như kỷ niệm 100 năm Tu Chánh Án Thứ 19, nội dung cho phụ nữ quyền đi bầu cử.

Bên cạnh các hoạt động văn hóa, như phim ảnh, triển lãm, kịch nghệ, diễn hành… trong Tháng Lịch Sử Da Đen có một truyền thống lặng lẽ, nhưng đầy chiều sâu: đọc sách. Bạn có thể đề nghị giới trẻ trong cộng đồng Việt một tác phẩm nào để các em đọc, để ý thức rằng sự kỳ thị màu da là có thực và rất đau đớn, và Phật Giáo đã trở thành nơi nương tựa của rất nhiều người da đen Hoa Kỳ hiện nay.

Một tác phẩm hồi ký nổi bật của Giáo sư Jan Willis-- có nhan đề “Dreaming Me: Black, Baptist, and Buddhist ― One Woman's Spiritual Journey” (Mơ Tôi: Da Đen, Tín Đồ Baptist, và Là Phật Tử -- Hành trình Tâm linh của một Phụ Nữ) -- được nhiều độc giả quan tâm về Phật giáo giới thiệu cho nhau trong tháng này. Sách này in lần đầu năm 2001, và tái bản 2008.

Trong phần giới thiệu trên Amazon, ghi nhận rằng: “Jan Willis không phải tín đồ Baptist hay Phật giáo. Bà đơn giản là cả hai. ‘Dreaming Me’ là chuyện đời của tác giả, khi niên thiếu trưởng thành trong các vùng Jim Crow South (tiếng lóng chỉ: các tiểu bang phía nam có luật kỳ thị da đen để thượng tôn da trắng), đối phó với kỳ thị trong một đại học Ivy League (nhóm đại học nổi tiếng nhất Hoa Kỳ), và rời dính líu với Đảng Báo Đen (Black Panther Party – một đảng cách mạng da đen cực tả, lập năm 1966, giải tán năm 1982). Nhưng chỉ tới khi gặp Lama Yeshe, một nhà sư PG Tây Tạng cư ngụ trong vùng núi Nepal, bà mới nhận ra con người thực của bà, và từ đó bà biết cách sống tận lực cuộc đời của bà.”

Nữ Thiền sư Hoa Kỳ Sharon Salzberg, người có nhiều tác phẩm về Phật giáo, nhận định về sách Dreaming Me: “Sách của Jan Willis là một cẩm nang hướng dẫn đầy thông tin, tuyệt đẹplôi cuốn cho những ai muốn tìm sự chuyển hóa. Tác giả khéo léo đan kết chuyện đời riêng và lời Phật dạy, đưa tới hiện thực về hành trình bước đi tới giải thoát.”

Thupten Jinpa, người sáng lập viện nghiên cứu và dịch thuật về Phật giáo Tây Tạng Institute of Tibetan Classics, và là thông dịch riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhận định về hồi ký Dreaming Me: “Một cuốn sách chân thực gợi cảm hứng về thăng hoa cá nhân và là chiến thắng của lòng người. Sách tuyệt vời này chạm vào nhiều chủ đề mà tất cả những người hành hương chân thựcđặc biệt những ai muốn kết hợp di sản văn hóatôn giáo với hành trình tâm linh mới tìm ra – đều phải giải quyết ở một điểm nào đó trên hành trình của họ.”

Hai nhà phê bình Frederic và Mary Ann Brussat ghi nhận rằng Jan Willis là người Mỹ da đen đầu tiên trở thàng một học giả chuyên về Phật Giáo Tây Tạng và là một dịch gia về lĩnh vực này. Bà là giáo sư môn tôn giáo học tại đại học Wesleyan University và đã giảng dạy về Phật học trong hơn 25 năm. Với tập hồi ký kể lại hơn 50 năm trong đời bà, tác giả Willis tập trung vào cuộc đi tìm: “Để vượt qua cảm thọ về đau đớnđau khổ mà tôi gánh chịu, tôi biết tôi sẽ phải tìm chữa lành, để tìm thấy nơi tiềm ẩn rất căn bản cho tất cả chúng ta: cảm thấy là nhà trong chính làn da của mình. Và do vậy, từ những ngày sớm nhất của tôi, nỗ lực đơn độc đi tìm của tôi trở thành đi tìm một phương pháp để chấp nhận chính tôi và để yêu thương tôi.”

Tác giả Jan Willis sinh năm 1948 và trưởng thành ở thị trấn Docena, tiểu bang Alabama, nơi tổ chức thượng tôn da trắng Ku Klux Klan hoạt động tích cực. Khi còn là vị thành niên, bà chứng kiến những cây thánh giá với lửa còn đốt cháy (do KKK) cắm trước nhà của bà. Willis đã tham dự biểu tình, diễn hành của Tiến sĩ Martin Luther King, Jr. và cảm thấy bà đang trên đường của bà --- đứng dậy vì điều bà thấy là chính nghĩa quan trọng. Bà được nhận vào đại học Cornell University năm 1965 và là một trong 8 sinh viên da đen duy nhất.

Sau khi du học Ấn Độ, nơi bà cũng học tiếng Sanskrit, trong năm junior (năm thứ 3 của bậc Cử nhân Hoa Kỳ), Willis trở về đại học Cornell và tham dự liên đoàn sinh viên da đen Black Student Alliance trong cuộc tấn công vũ trang, chiếm tòa nhà sinh viên trong khuôn viên đại học. Nhưng thay vì gia nhập Đảng Báo Đen, Willis trở về Nepal  để học về PG Tây Tạng dưới hướng dẫn của đại sư Lama Yeshe. Đại sư đã hướng dẫn tác giả trong 15 năm về nan đề lớn nhất của bà: “chấp ngã quá sâu dày.” Willis học được cách dịu dàng đối với sự kiêu hãnh của bà. Phương pháp tu giữ tâm kham nhẫn, trong sáng của PG giúp bà tới chỗ tự chấp nhận chính mình. Bà bây giờ tự gọi là một Phật tử Baptist.

Willis hoàn tất Tiến sĩ về Phật học tại đại học Columbia University và đã học, thực tậpnghiên cứu tại các trung tâm  Phật Giáo Tây TạngẤn Độ, Nepal, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ trong hơn bốn thập niên. Bà là tác giả nhiều sách về PG, viết trên nhiều tạp chí về Thiền tập, vấn đề phụ nữ và PG, vấn đề PG và màu da.

Trước khi sách Dreaming Me ấn bản đầu ấn hành một năm, Tạp chí Time vào tháng 12/2000 đưa bà vào danh sách “Sáu nhà sáng tạo tâm linh cho thiên niên kỷ mới.” Jan Willis được nhiều giải thưởng và nhiều vinh danh từ cả giới học Phật và các nhà hoạt động phụ nữnhân quyền.

Jan Willis sinh ra và lớn lên ở thị trấn Docena, một thị trấn nhỏ với kinh tế chính là hầm mỏ. Willis phải học trường giành riêng cho học sinh da đen, lúc nào cũng xuất sắc, nhưng liên tục là nhân chứng và là nạn nhân bị da trắng kỳ thị. Những đau đớn kỳ thị này đi cả vào trong những giấc mơ của tác giả.

Jan Willis khởi sự tập hồi ký bằng lời kể về một giấc mơ, trong đó bà bị một bầy sư tử xông tới hăm dọa. Giấc mơ đã hình tượng hóa những gì mơ hồ trừu tượng từ thơ ấu – những nỗi sợ và gánh nặng tác gia gặp phải trong vị trí “một thiếu nữ từ miền Nam [Hoa Kỳ].” Trong giấc mơ, mẹ cùa Jan Willis cảnh giác con, “Con phải biết là đầy nguy hiểm ngoài kia!” Dù vậy, trong giấc mơ những nguy hiểm đó hiện hình thành bầy sư tử.

Jan Willis kể lại, “Tôi biết bầy sư tử rượt tôi… Tôi chạy và chạy, mệt thở hết nổi, hổn hển qua không khí nóng. Tôi không thấy ai cả, không ai tới để giúp.” Khi tỉnh giấc mơ là trong tâm chỉ còn lại những nỗi phẫn nộ và cực kỳ đau đớn.

Tác giả Jan Willis kể rằng đại sư Yeshe với lòng từ bi đã xem bà như con. Nhưng vẫn khác, vì nhiệm vụ một người thầy là phải dạy học trò.

Jan Willis viết: Lạt Ma Yeshe gọi tôi là đứa con gái ruột. Tôi nghĩ rằng Thầy cũng đã gọi nhiều phụ nữ độc thân khác là con gái tương tự. Nhưng tôi biết Thầy nghĩ về tôi, trong cách nào đó, là rất đặc biệt. Nhiệm vụ của Thầy là làm cho tôi cũng cảm nhận thấy sự đặc biệt đó, và để dạy tôi tin tưởng vào chính năng lực của tôi. Có một khoảng cách mênh mông giữa 'different' (khác biệt) và 'special' (đặc biệt). Mẹ tôi nhìn tôi như là một đứa khác biệt; Lama Yeshe nhìn tôi như là đặc biệt. Và đặc biệt có nghĩa là được yêu thương riêng cho chính tự thân, vì sâu tận nội tâm, nơi tận cùng là trong sạch, trí tuệ, từ bivi diệu. Lama Yeshe biết như thế về tôi, như Thầy biết như thế về tất cả các chúng sinh. Và đó là các vị Thầy chân thực ứng xử như thế: quý Thầy yeu thương chúng ta không ngằn mé bởi vì quý Thầy thực sự nhìn chúng ta là rất úy giá, từng ngườu trong mỗi chính riêng tự thân mình – không gì [nơi chúng ta] thấp hơn các vị Phật.”

Một tháng trước khi ấn bản đầu của sách Dreaming Me phát hành, Tập San Phật Học Mandala số tháng 3/2001 phỏng vấn tác giả Jan Willis. 

Có chuyện gì lạ khi một học giả viết hồi ký? Vâng, khác biệt lắm, và cũng đặc biệt lắm. Jan Willis lúc đó 52 tuổi (vào năm 2001) là giáo sư dạy Phật học ở Wesleyan University tại thành phố Middletown, tiểu bang Connecticut, lúc đó đã ấn hành 4 sách đều có chủ đề nghiên cứu về Phật Giáo

Tác giả Jan Willis trả lời phỏng vấn của Mandala rằng trong khi viết tập hồi ký Dreaming Me, nhà biên tập ở nhà xuất bản Riverhead nhắc nhở rằng đừng có viết kiểu như thờ phượng đại sư Lama Yeshe quá mức. Bà Willis biết rằng tất cả những sách viết cho độc giả Tây Phương có thể vướng nỗi nguy hiểm khi viết về các đạo sư phi thường. Bà nói thực sự bà không viết kiểu “thờ phượng đạo sư” mà chỉ kể những chuyện theo học từ khi là một cô sinh viên hai mươi tuổi, lúc đó trong lòng còn đầy những giận dữ, đau đớn và tủi hổ. Tác giả Willis nói phần tập trung là ca ngợi phương pháp Thầy Yeshe dạy bà cách hồi phục tự tin. Thầy đã nói đi nói lại với cô học trò Willis về cách nhận ra và thăng hoa sự kiện rằng “tôi là một phụ nữ mạnh mẽ và thông minh, người có kho tàng nội tâm để đóng góp cho thế giới.” Và cần tới 15 năm học với Lama Yeshe để hoàn toàn nhận ra tự tâm trong sáng, hoàn toàn không vướng mắc chút màu da hay chủng tộc, hay bất kỳ ranh giới nào.

Jan Willis kể rằng câu chuyệnchuyển hóa tâm linh là phổ quát cho nhiều người, rằng bà không phải là đứa trẻ da đen duy nhất sinh ra và lớn lên trong một thị trấn có luật kỳ thị da đen gay gắt ở Miền Nam Hoa Kỳ, và bất kể những giải thưởng trong thời đi học, khi bà gặp Lama Yeshe, bà vẫn mang đầy những gánh nặng đau đớn, và chính Thầy Yeshe đã giúp bà hàn gắn vết thương, bằng cách chấp nhận sự kiện rằng “đôi khi ngay cả tâm Phật cũng phải phẫn nộ.”

Vâng… xin mời bạn đọc kỹ câu cuối trong đoạn trên. Sẽ không có một Phật Tử Châu Á nào dám viết như thế. Chỉ Phật Tử Mỹ, và chỉ một số thôi, không nhiều, mới viết kiểu như thế, rằng thời thơ ấu của một thiếu nữ da đen bị kỳ thị gay gắt tới nỗi “tâm Phật cũng phải phẫn nộ.”

Tác phẩm hiển nhiên là, hy vọng sẽ giúp được nhiều độc giả tìm được lối đi trong lời dạy của Đức Phật.

  

PHOTO:

zzz__H 1_book_Dream Me_2008_2001H1: Từ phải: bìa sách in lần đầu 2001, tái bản 2008.

zzz__H 2_Jan Willis_Mandala MagazineH2: Từ bé gái tín đồ Baptist, tới nữ sinh viên theo học Lama Yeshe. (Photo courtesy Mandala Magazine)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12020)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10372)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8854)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10333)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10922)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12031)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8693)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9297)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10036)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11324)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9839)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9375)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10091)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10115)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9300)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13314)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10186)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10493)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10944)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9122)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10292)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10251)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9333)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11048)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15065)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11799)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10140)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12669)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10908)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10419)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10780)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10695)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10563)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9996)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9316)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9354)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11366)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9703)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13081)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12628)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9174)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9579)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9611)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9638)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9195)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8998)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10403)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8623)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8308)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15589)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant