Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Nhà Đại Cách Mạng

20 Tháng Năm 202011:16(Xem: 3112)
Đức Phật Nhà Đại Cách Mạng

ĐỨC PHẬT NHÀ ĐẠI CÁCH MẠNG

 

Thích Thắng Hoan

 

(Bài này đăng trong Đặc San Hoằng Pháp năm Quí Sửu 1975 của Tổng Vụ Hoằng Pháp, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quê nhà, tôi trích ra để làm tư liệu trong Trang Nhà Thích Thắng Hoan).

 

      Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hộicách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.

 

      Theo Ngài, muốn cách mạng xã hội, phải cách mạng tư tưởng và trước hết phải hoàn tất cuộc cách mạng bản thân.

 

      Lịch sử Ấn Độ cho biết, khoảng 3.000 năm trước kỷ nguyên, xã hội Ấn Độ theo chánh thể Cộng Hoà với nền văn minh sẵn có gọi là nền văn minh Panjab, thuộc vùng thượng lưu sông Indus. Nền văn minh nầy về sau, khoảng 1.500 năm trước kỷ nguyên bị nền văn minh Rig-Veda của Bà La Môn Giáo xâm lăng và tiêu diệt bằng cách đồng hoá.

 

      Nền văn minh Rig-Veda của giống Aryan, do Bộ Lạc Bhàrata cầm đầu, phát xuất từ Trung Á Tế Á (Asia, ở bờ biển Caspienne, nay thuộc địa phận nước Nga) mang đến đặt nền móng tại Ấn Độ. Khi xâm lăng, giống Aryan chủ trương chia để trị và nô lệ hóa tư tưởng. Nhờ đó, họ thống trị được dân Ấn và củng cố được uy quyền, suốt giòng lịch sử đến Phật Thích Ca ra đời. Chế độ Cộng Hòa xưa kia tại Ấn đã bị thay thế bằng chế độ Quân chủ chuyên chế của Bà La Môn và họ chia xã hội thành bốn giai cấp khắc khe, sau khi bộ luật Manu được công bố. Quyển “Phật và Thánh chúng” (của tác giả Cao Hữu Đính, trang 20-22), mục “Xã Hội Ấn Độ” có đề cập đến bộ luật Manu như sau: “Luật Mã-Nỗ chia toàn thể lãnh thổ Ấn-Độ của người Dravida thành Ngũ Ấn, và chia toàn thể dân chúng sống trên lãnh thổ ấy thành bốn giai cấp, trong đó có hai giai cấp thống tri là Bà La Môn và Sát Đế Lỵ, còn hai giai cấp Phệ XáThủ Đà La là hai giai cấp bị áp bức... Luật Mã Nỗ, chương 8, tiết 270-272 quy định rằng Thủ Đà Lagiai cấp Trời sinh ra để làm nô lệ, rằng nếu Thủ Đà La kêu tên Bà La Môn thì bị cắt lưỡi, rằng nếu không tuân lệnh của giai cấp thống trị thì nấu dầu đổ vào lỗ tai v.v...

 

         Chẳng những xã hội Ấn Độ khổ đau vì giai cấp bất công, chính ngay thời Đức Phật, Phụ vương Ngài cũng bị sự kềm kẹp của chế độ xâm lăng qua Hội Đồng Quân Lực mà Bà La Môn cầm đầu trong mọi lãnh vực văn hóa, chính trị, kinh tế v.v... Điều kiện đây được thấy trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ, qua câu chuyện Vua Tịnh Phạm băn khoăn trước ý chí xuất gia quá mạnh của Hoàng tử Sĩ Đạt Ta. Câu chuyện rằng: Vua Tịnh Phạn sợ Thái Tử xuất gia, sau lời tiên đoán của chiêm tinh gia A Tư Đà (Casita), hợp quần thần lại tìm kế hoạch cầm chân Thái tử. Một cận thần Ưu Đà Di (Udãyin) đề nghị: “Chỉ có sợi tóc của Mỹ nhân mới cột chân nổi kẻ anh hùng”. Vua Tịnh Phạn tán thành đề nghị ấy, liền tổ chức cuộc thi Hoa hậu mà người chấm thi chính là Thái tử. Hoa hậu được Thái tử chấm hạng nhất là Công chúa Gia Du Đà La (Yasoddhara), con vua Thiện Giác (Supprabuddha) trong các chư hầu.

 

         Theo lẽ, Vua Tịn-Phạn có thẩm quyền trên hết, nhất định tổ chức lễ thành hôn cho Hoàng tử ngay sau khi cuộc thi Hoa hậu chấm dứt. Ngược lại, vua bất lực trước quyết định trên, nguyên do không được sự chấp thuận của Hội Đồng Quân Lực,  mặc dù vua muốn thực hiện ngay để sớm cản trở ý nguyện xuất gia của Hoàng tử.

 

         Nguyên vì muốn chiếm đoạt tình yêu của Hoàng tử đã chọn, vừa đẹp nhất, vừa tao nhã lịch thiệp, phản thần Đề Bà Đạt Đa, (Devadatta), con của Bạch Phạn Vương, anh em chú bác với Hoàng tử, tấn trình lên Hội Đồng Quân Lực bắt buộc Hoàng tử muốn cưới vợ phải qua cuộc thi võ nghệ. Triều đình ai cũng biết Đề-Bà-Đạt-Đa tài nghệ cao cường, lo sợ Hoàng tử không nào thắng được. Không ngờ Hoàng tử đã thắng cuộc một cách vẻ vang trước sự hoan hô nồng nhiệt của khán giả tham sự.

 

         Như thế qua hiện tượng nói trên cũng đủ chứng minh giá trị của vua chúa trước uy quyền tuyệt đỉnh Bà La Môn thời bấy giờ.

 

         Để đả phá giai cấp bất công trên, Đức Phật ra đời châm ngòi cho cuộc cách mạng xã hội. Ngài ra đời đúng lúc sự bất mãn chế độ giai cấp của quần chúng đang lớn mạnh và lan sâu trong mọi tầng lớp xã-hội.

 

         Ngài ra đời năm 563 năm trước Tây lịch, là một Thái tử duy nhất của nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), con vua Tịnh Phạn (Suddhodana), họ Cù Đàm (Gautama), thuộc dòng quí tộc Thích Ca (Sakya). Nước Ca Tỳ La Vệ nằm phía bắc nước Kiều Tát La (Kosala) hiện nay là nước Népal.

 

         Về phương diện vật chất, Ngài sung sướng không ai bằng, Vua Tịnh Phạn cầu khẩn khắp Đền Miếu mới sinh được Ngài. Vua quý trọng Ngài trên hết, xây ba tòa lâu đài hợp với ba mùa để cho Ngài ở, cấp cung tần suốt ngày đêm đờn ca múa hát để Ngài quên bổn phận của Dân tộc, của con người, giải phóng nô lệ cho dân Ấn và giải thoát sinh tử cho chúng sinh.

 

         Để hoàn thành sứ mạng cao cả ấy, trước hết, Ngài thoát ly gia đình ràng buộc, vượt thành xuất gia tầm đạo. Ngài ra đi, bỏ lại sau lưng tất cả sự nghiệp huy hoàng của một vương quốc, bỏ lại vua quan yêu chuộng, vợ con luyến ái, dấn thân khổ hạnh suốt sáu năm trường và bốn mươi chín ngày nhập định nơi cội Bồ-đề. Ở đây, Ngài một mặt chiến đấu với bản thân, một mặt chiến đấu với hoàn cảnh cám dỗ. Kết quả cuối cùng cuộc đời tầm đạo, Ngài chứng quả Bồ-Đề. Cùng một con người xát thịt, Ngài khác hẳn về tính chất: tính chất con người giác ngộ đã loại trừ hết tính chất phàm phu đầy phiền não vô minh dục vọng của một Thái tử tầm thường và được thành chánh giác. Từ đây, Ngài đã hoàn thành cuộc cách mạng bản thân.

 

         Bước sang giai đoạn cách mạng tư tưởng. Theo Ngài, dân tộc Ấn Độ bị đầu độc bởi tư tưởng Bà La Môn ngoại lai. Họ đầu độc không ngoài mục đích củng cố uy quyền chặc chẽ của một chế độ xâm lăng kéo dài hơn một ngàn năm, bóp chẹt và giết chết mầm móng tư  tưởng truyền thống tự do của dân Ấn có tự ngàn xưa. Tư tưởng Bà La Môn được thể hiện qua bốn bộ Kinh Rig-Veda, Brãhamana, Aranyaka, Upanishad và sáu phái triết học. Đáng thương hại, dân tộc Ấn Độ lầm nhận tư tưởng Bà La Môn ngoại lai cho là nguồn gốc của nền văn minh nước họ và họ mặc nhiên trung thành phụng sự tuyệt đối. Tư tưởng nầy, đa số đều xây dựng trên chủ nghĩa Duy Thần, để kiện toàn chế độ Quân Chủ của chúng. Tư tưởng đây được thể hiện qua một “Đấng sáng tạo” siêu nhiên, như các đấng Krishna, Vichnou, Purusha, Prajapati, Brahma Brãhaman v.v... Họ quan niệm rằng, những đấng ấy giống như loài người, nghĩa là cũng có đầu, mình, tay, chân, mắt, tai, mũi, lưỡi biết đi, biết ăn, biết nói, biết mừng, giận, thương yêu, oán, ghét ... Uy quyền tuyệt đối của đấng trên so với vũ trụ nhân sinh, cũng như uy quyền của một ông vua chuyên chế đối với thần dân trong nước. Đấng sáng tạo đó có quyền tạo thiên lập địa, ban phước giáng họa cho nhân sinh, chẳng khác nào ông vua nắm trọn trong tay sinh mạng tất cả thần dân v.v ...

 

         Khi Đức Phật thành đạo, Ngài bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng tư tưởng vĩ đại, đả phá tất cả khuynh hướng cực đoan đương thời bành trướng và đảo lộn luân lý xã hội Ấn Độ. Ngài cực lực bài xích những tư tưởng đoạn kiến ngoại đạo thuộc chủ nghĩa Duy vật và những tư tưởng thường kiến ngoại đạo thuộc chủ nghĩa Duy thần ở trên. Những phái chủ nghĩa Duy vật này thuộc trong nhóm “Lục sư ngoại đạo” như phái: Ajita-Kasakambalin, Pũranakãssãpa v.v... Họ giáo dục con người chỉ biết sống hiện tại, tự do hưởng thụ dục lạc, vô trách nhiệm tương lai. Quyển “Lịch sử Văn Minh Ấn-Độ” (của tác giả Vill Durant mà Nguyễn-Hiếu-Lê dịch, trang 87), có đề cập đến lời ông Ajita-Kasakamabalin: “Kẻ điên khùng cũng như người hiền triết, chết rồi, thây rả ra thành cát bụi, tiêu diệt hết, chẳng còn gì cả”. Tác giả tập Anh Hùng Ca Ramaya tả Jabali nhà Bác học Bà La Môn hoài nghi, ngụy biện. Bác học Jaba bảo vị quan hầu trẻ tuổi xứ Ayodhya rằng: “Này Rama, tại sao lại để những lời cách ngôn tai hại đó làm mờ ám lương tâm, méo mó trí óc như vậy. Những cách ngôn đó đã làm cho bao nhiêu kẻ chất phác không suy nghĩ phải lầm lạc? Ôi, ta thương hại những kẻ lầm lạc đó cứ mãi miết đi tìm một bổn phận ảo huyền, phí thức ăn! Thần và tổ tiên đâu có nhận tế lễ của ta! Và thức ăn một khi phân phát đi rồi nuôi ai được nữa đâu. Thức ăn dâng cho một tu sĩ Bà La Môn, tổ tiên ta còn làm sao dùng nó được nữa? Chính bọn tu sĩ quỉ quyệt đó đã đặt ra lệ đó; chúng ích kỷ bảo ta: “ Dâng đồ cúng và sống khổ hạnh đi, từ bỏ của cải hết đi mà cầu nguyện. Nhưng làm gì có thế giới vị lai. Rama này, các hy  vọng và tín ngưỡng của loài người toàn là ảo cả đấy: Vậy cứ hưởng khoái lạc trên cõi trần này và từ bỏ các ảo tưởng vơ vẩn vô ích đó đi”.

 

         Đây là chủ trương của phái Duy vật tai hại. Chính vì thế, một số người của xã hội Ấn Độ lúc ấy thiếu bổn phận với con người, và hạnh phúc gia đình không được bảo đảm vẹn toàn. Chủ trương trên gây bất mãn trong quần chúng không ít.

 

         Nhưng bạo phát bạo tàn, phong trào này không tồn tại trước ánh hào quang của Đức Phật.

 

         Đức Phật đưa ra tư tưởng “Chủ Nghĩa Bình Đẳng” để kiện toàn cho cuộc cách mạng xã hội bằng lý thuyết “Trung Đạo Duyên Khởi”. Ngài nói: “Ta là Phật đã thành các con là Phật sẽ thành” hay “Nhất thế chúng sanh giai hữu Phật tánh” (nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh) được ghi lại trong các kinh và nhất là trong bài kệ mở đầu Kinh Phạm Võng (trang 14 của Thượng tọa Trí Tịnh dịch). Đây thật là biểu hiện tinh thần bình đẳng tột độ. Tinh thần nầy được tiêu biểu trên hai phương diện: xã hộitâm linh. Đối với vũ trụ nhân sinh, Ngài chủ trương “Nhân Duyên Duy Nghiệp” và thăng hóa con người bằng thuyết “Trung đạo trí tuệ giải thoát”. Đó là đặc trưng của Phật giáo trong cuộc cách mạng tư tưởng.

 

         Song song với cuộc cách mạng trên, Đức Phật đả phá bốn giai cấp xã hội Ấn Độ, di sản của Bà La Môn để lại. Ngài cho rằng: Xã hội giai cấp là mầm mống thối hóa nguyên nhân chiến tranh, mọi bất công đau khổ của con người cũng từ đây trổi dậy và làm cho con người trở nên bạc nhược ương hèn trước những bạo lực bên ngoài đưa đến. Cũng vì thế, dân tộc Ấn bị và chấp nhận lòn cúi sự nô lệ của Bà La Môn xâm lăng qua bao thế kỷ, không trổi dậy được. Ngài thường nói : “Con người không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, giọt máu cùng đỏ”. Tiêu biểu cho cuộc cách mạng xã hội. Giáo đoàn của Ngài thâu nhận ông Upãli là người thợ cạo, và Matãnga là dâm nữ, thuộc giai cấp Thủ Đà La (Sũdra) hạ tiện vào hàng Thánh chúng trước sự ngạc nhiên của các vua chúa.

 

         Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài được xây dựng trên tinh thần từ bi làm nền tảng và tinh thần bất bạo động làm mục đích để thực hiện. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ đã chứng minh tinh thần nầy qua con đường truyền giáo và sự đối xử của những kẻ ám hại Ngài do Bà La Môn cấu kết và chủ trương.

 

         Sự thành đạo của Ngài chính là báo động trọng đại cho chế độ Bà La Môn lưu tâm. Ngài bắt đầu truyền đạo tại nước Magãdha để đặt nền móng Phật giáo cũng như mở rộng tư tưởng qua các nước lân bang nhất định không tránh khỏi những đối kháng mãnh liệt của Bà La Môn. Những tổ chức đối kháng ám hại Ngài được ghi trong lịch sử Phật giáo như Cô Cinca, giả bụng chửa vu oan cho Phật, Phản thần Đề Bà Đạt Đa (Devadtta) xô đá hại Phật, Vua Ajãtasatru phục rượu voi để chà đạp Phật, Vua Virũdhaka tàn sát dòng họ Phật v.v... Những kẻ ấy vẫn được Ngài độ cho thành Phật không đối xử như một kẻ thù. Nhờ thêm bạn bớt thù nầy, Ngài đã thành công hy hữu lật đổ được chế độ độc tài cố hữu của Bà La Môn và chiếm địa vị độc tông tại vùng Trung Ấn suốt dòng lịch sử đời Ngài. Sự chiến thắng nầy không phải bằng xương máu và nước mắt mà ngược lại bằng tình thương bao la, đánh bại mọi tư tưởng đương thời, san bằng mọi giai cấp xã hội. Trong khi đó, những Giáo chủ khác, những nhà cách mạng khác trên thế giới đều  đổi lấy sự thành công bằng xương máu và nước mắt khổ đau của con người.

 

         Để kết luận, những đặc điểm trên đây, cũng nói lên được giá trị của Đức Phật Thích Ca. Ngài xứng đáng là bậc vĩ nhân trên hết trong tất cả vĩ nhân thế giới. Ngài không còn là con người của dân tộc Ấn Độ tôn thờ, mà của chung tất cả nhân loại noi gương. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không những khuôn vàng thước ngọc cho dân tộc Ấn Độ mà chung cho nhân loại muốn thực hiện cách mạng xã hội mai sau.

 

         Phương pháp ấy đã được Thánh Gandhi áp dụng năm 1891 chống lai sự đô hộ nước Anh, và năm 1963, Phật giáo ViệtNam đem ra chống lại chế độ độc tài Gia đình trị họ Ngô. Tất cả đều thành công rực ỡ. Hy vọng chủ thuyết của Ngài sẽ được khai triển tột đỉnh và trở thành trọng điểm công thức cho tư trào cách mạng tương lai trong xã hội văn minh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14941)
Nếu có điều kiện, chùa cần phải hòa nhập với cảnh trí thiên nhiên. Vườn cảnh quanh chùa nếu khéo phối trí có thể làm tăng vẻ u nhàn, thanh thoát, trang nghiêmthiền vị.
(Xem: 17292)
Pháp thoại của HT Thích Nguyên Siêu với đề tài Duy Ma Cật vào lúc 6: 00 pm ngày Thứ năm 8/12/2011 cho Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp DŨNG và Cấp TẤN Hoa kỳ... Tâm Đăng
(Xem: 16873)
Tường thuật buổi giảng kinh Duy Ma Cật của HT Thích Nguyên Siêu cho huynh trưởng GĐPT cấp Tấn ngày 9/12/2011 - Tâm Minh
(Xem: 19679)
Thầy là tất cả như bông hoa cỏ nội mây ngàn, núi cao biển rộng hàm tàng đại thể như nhiên...
(Xem: 15063)
Cung điện Potala bắt đầu được xây dựng vào năm 1645 dưới thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, phải mất 50 năm mới hình thành quy mô như hiện nay gồm Hồng cung và Bạch cung...
(Xem: 16077)
Tỉnh! Trong thiền thất của vị sư già, tỉnh! Tỉnh như ngọn đèn dầu yên tỉnh. Sáng mà không lay. Cháy mà không chao động... Nguyên Siêu
(Xem: 14026)
Y phục của người xuất gia cũng gây nhiều sự chú ý của giới nghệ thuật, chiếc áo cà sa đã đi vào văn học dân gian, im đậm vào văn hoá và tư tưởng con người.
(Xem: 12730)
Những sự vật đều nằm trong tiến trình của sự trở thành để rồi tan rã. Như thế một vật có tính chất tạm thời thì không thể cho chúng ta hạnh phúc thật sự...
(Xem: 12819)
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị Quốc vương có tiếng nhân từ vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm...
(Xem: 12490)
Chúng ta đến đây là tiếp xúc cho được với niềm vui và nỗi buồn của một triều đại, của một ông vua, để từ đó có thể tiếp xúc được với niềm vui, nỗi buồn của chính mình trong kiếp sống con người này.
(Xem: 13469)
Một hôm, Ðức Phật cùng đệ tử vào thuyết pháp trong thành La Duyệt Kỳ, lúc ra về gặp chành thanh niên đang lùa một bầy bò vừa ăn no, chúng nhảy vọt vào húc nhau...
(Xem: 13669)
Bên trời sương mù đã tan hẳn. Vầng thái dương ẩn hiện sau áng mây thua, chiếu ánh sáng huy hoàng trong khoảng không gian trong tạnh...
(Xem: 13900)
Bước đi trong chánh niệm, chúng ta sẽ tiếp xúc được những sự màu nhiệm của cuộc sống. Từng bước chân thiền hành đã cho tôi tiếp xúc được với đất trời vào Thu...
(Xem: 14262)
Ngày xưa, thuở đức Phật còn tại thế, một hôm có người mẹ ôm xác con tìm đến đức Phật để khóc lóc và xin cứu sống cho đứa con của bà vừa mới chết...
(Xem: 12655)
Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật...
(Xem: 13797)
Sau khi kính cẩn chắp tay hình búp sen, tôi quyết định chụp một tấm hình bên cạnh Đức Phật Như Lai. Và cùng với đó là ước nguyện nụ cười luôn nở trên môi mình...
(Xem: 13825)
Hôm nay theo thứ lớp khất thực Ðạo sĩ A La phải đặt chân vào một chiếc cổng cổ kính, nhưng không kém phần tráng lệ và mỹ thuật của một thương gia...
(Xem: 13695)
Con người không nên đổ thừa hoàn cảnh, mà phải có cuộc cách mạng tinh thần phổ cập trong xã hội với giá trị đạo đức Phật giáo để tháo những gỡ vướng mắc trong đời sống hiện tại.
(Xem: 13359)
Ngày mùa đông chúng tôi rủ nhau ra khu rừng chồi nho nhỏ cạnh khu nhà ở mướn của chúng tôi để hái hoa, hái trái dại về cắm bình hoa nhỏ...
(Xem: 16012)
Khi còn đi học, anh nghe chuyện kể rằng: Có nhà thám hiểm đi lạc vào bộ lạc của tộc người hung dữ. Người tù trưởng muốn mượn cớ giết anh để tỏ rõ sự khôn ngoan trước bộ tộc.
(Xem: 16103)
Chùa Từ Đàm từ quốc nội đến hải ngoại - HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 13833)
Xây dựngcủng cố một dòng chính văn hóa để đất nước tiến lên mà không mất gốc không hỗn loạn, đẹp mà dễ thương đó cũng là trách nhiệm của trí thức đương thời.
(Xem: 16759)
Đám lá dừa bắt đầu xào xạc, mùi mưa ẩm ướt xộc vào nhà qua mấy cánh cửa đang mở toan hoang. Tiếng mưa rào rào to dần như đã đến ngay cạnh bờ mương...
(Xem: 14322)
Sự bình an trong đời sống chưa bao giờ bỏ rơi người. Nó chỉ bị che lấp bởi những điều vụn vặt tầm thường. Để tìm lại sự bình an đó, người phải lau rửa, dọn dẹp lại bên trong người.
(Xem: 13044)
Cuộc đời ba trải dài theo năm tháng với bao biến cố bởi sóng gió cuộc đời; như dòng sông quê mình quanh co, uốn lượn mà mỗi khúc sông là một dòng chảy khác nhau...
(Xem: 13473)
Tôi bước lên đồi. Choáng ngợp trước một rừng hoa đại xum xuê rộng lớn. Những gốc cây sù sì, gân guốc tua tủa như đôi tay lực sĩ mạnh mẽ vươn cao. Biển trời bao la.
(Xem: 13427)
Con mèo mù nhìn là động lòng thương tâm, trắc ẩn! Gương mặt non nớt yếu ớt với hai hốc mắt dính lại, đi đứng liêu xiêu. Mỗi lần cho ăn, mình phải bế nó để lên bàn...
(Xem: 17539)
"Cái kiếp con người: Sinh lụy tử". Đó là điều chắc chắn. Nước mắt đã nhỏ xuống quá nhiều cho cái vòng tròn khép kín này.
(Xem: 13184)
Từ những chiếc lá xanh non cho đến lúc úa tàn héo rũ, đã trở thành quy luật thay đổi mất còn của tạo hoá.
(Xem: 13961)
Nếu mai là ngày cuối của cuộc đời tôi sẽ nói với bạn hãy nhìn tôi mà chiêm nghiệm và suy ngẫm một chút về cuộc đời này nhé, bạn ơi! Hãy sống có ích cho chính bản thân mình...
(Xem: 12579)
Sư ông bảo rằng: “Tiếng chuông đại hồng ngân lên không phải chỉ có chúng ta nghe được mà chư vị Bồ tát, Hộ pháp cũng đều nghe thấy. Tiếng chuôngcông năng siêu thoát...
(Xem: 12528)
Người biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết phục thiện; người biết phục thiện thì dễ tiếp thu đạo lý giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lý giác ngộ thì dễ thực hành tự tri...
(Xem: 12711)
Cảm khái từ một bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc, Paul và gia đình vận động mọi người ngày thứ Hai không dùng thịt, như là một phương cách làm chậm lại sự biến đổi của khí hậu.
(Xem: 12916)
Dù là một kẻ ăn mày, những kẻ hèn mạc thấp nhất trong xã hội thì họ cũng có quyền sống và khao khát được sống. Ai tước đoạt quyền ấy của họ thì cũng có ngày sẽ phải trả giá...
(Xem: 15369)
Mỗi đêm trong sự thực tập Phật Giáo của tôi, tôi cho và nhận. Tôi nhận sự nghi ngờ của người Trung Cộng. Tôi tặng lại niềm tintừ bi.
(Xem: 15144)
Hãy quán hơi thở! Hơi thở luôn ở đây cùng chúng ta. Đức Phật đã dạy chúng ta thực hành thiền định về hơi thở, điều này cũng rất hữu ích như thiền định về chánh niệm.
(Xem: 13466)
Con về ngồi bên chân mẹ ngắm nhìn đôi chân xưa nhiều năm tất bật với đôi dép nhựa quanh năm. Bàn chân nứt nẻ đau rát mà mẹ đâu quản.
(Xem: 12813)
Đức Phật vì lòng thương con người nên chỉ rõ con đường Chân thật, tìm lại tâm mình trong những sóng gió khổ đau, biến đổi, mà tìm thấy được Chân thường trong Vô thường...
(Xem: 14212)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 14511)
Những ai đang đi trên lộ trình tâm linh và những ai muốn sống hòa hợp với người khác thì việc phát ngôn với sự hiểu biếtthương yêu là điều rất quan trọng.
(Xem: 12932)
Đời sống không chỉ là bung ra, thổi tốc mảnh tâm, đi truy tìm tự ngã trong một chốn sơn khê nào đó, hay trong những đô thị sầm uất, trong một cõi hoang vu...
(Xem: 12224)
Cái tạo nên giá trị làm người ở trong xã hội là nhân cách. Có nhân cách lớn (nhân cách tự-do-tinh-thần) là do có trí-tuệ-nhân-văn cao, có trí-lương-tri trong sáng...
(Xem: 13728)
Giữa đô thị ồn àophồn hoa, giữa nhịp sống náo nhiệt và vội vã, ta đi tìm riêng một khoảng lặng bình yên...
(Xem: 15099)
Với Phật giáo, sự hình thành và tồn tại của mỗi sự vật hay hiện tượng đều do nhân duyên. Duyên hợp thì sự thành, duyên tán thì sự tan.
(Xem: 21421)
Là một người Phật tử, Steve Jobs đã rất tinh tế khi sống lời Đức Phật dạy bằng cách cố vượt ra khỏi sự bức bách của tám nhân duyên ám ảnh trần thế...
(Xem: 14596)
Mặc dù thiền định là kỷ luật tôn giáo chính được thực hành bởi các Phật tử gốc Mỹ, nghi thức tụng niệm là một phần quan trọng của nhiều cơ sở thiền định.
(Xem: 14864)
Cần phảisức mạnh để nhận thức rằng chính nỗi sợ hãi và sự vị kỷ mới gây ra tức giận. Và cần phải có kỷ luật để thiền định về ngọn lửa đang hừng hực cháy của lòng sân hận.
(Xem: 13851)
Đã mấy mùa Xuân đi qua, mùa Thu trở lại, dòng đời vẫn trôi chảy, mây vẫn bay, nước vẫn thì thầm với rừng núi và cỏ cây… HT Thích Như Điển
(Xem: 16737)
Đẹp đến nao lòng, khi trong tiết tháng Bảy mưa phùn giăng nhẹ, và bất chợt nở nghiêng giàn những chùm hoa mướp cong cong. Thắt the và tươi mới. Nôn nao và tha thiết.
(Xem: 12852)
Những cơn sóng lăn tăn đủ kỳ cọ những vết sương gió trên da thịt con trôi đi và còn lại đứa con của mẹ dại khờ. Con thả lỏng và nằm nổi trên mặt nước xanh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant