Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Khuyên Ông Cấp Cô Độc Tu Thiền

31 Tháng Năm 202009:28(Xem: 4479)
Phật Khuyên Ông Cấp Cô Độc Tu Thiền

Phật Khuyên Ông Cấp Cô Độc Tu Thiền

Giao Uyên

Định Nghĩa Chánh Niệm


Cư sĩ Cấp Cô Độc (Anàthapindika) là đại thương gia đệ tử Thế Tôn, nổi danh về hạnh cúng dường bố thí1 , đóng góp công đức rất lớn vào sự nghiệp hộ trì Phật pháp. Ông chú tâm học hỏi lời Phật dạy, khéo vận dụng pháp của Phật vào công việc kinh doanh và biết sử dụng nguồn lợi tức hợp lý khiến đem lại lợi lạc cho nhiều người. Ông nổi tiếng với ngôi vườn mua lại từ thái tử Jeta trong đó ông cho xây cất một quần thể kiến trúc gọi là tinh xá Anàthapindika để cúng dường cho Đức PhậtTăng chúng của Ngài làm chỗ cư trú sinh hoạt. Bậc Đạo sư trải qua nhiều mùa an cư tại ngôi tinh xá này và thuyết giảng rất nhiều bài pháp ở đây. Có thể nói rằng Anàthapindika là mẫu người cư sĩ Phật tử rất thành đạt về phương diện kinh doanh và giao tế xã hội nhờ biết vận dụng và phát huy giáo lý của Đức Phật. Luật tạng Pàli cho biết Anàthapindika có nhiều bạn bè và quan hệ rộng rãi, lời nói của ông rất có uy tín2 .

Anàthapindika rất kính tín Tam bảo và tha thiết học hỏi giáo pháp của Đức Phật. Nhiều pháp thoại còn lưu lại trong các tuyển tập Nikàya cho thấy dù rất bận rộn, ông dành nhiều thời gian cho việc học hỏithực hành lời Phật dạy. Kết quả, lòng ngưỡng mộ Tam bảo và tha thiết học tập chánh pháp mang lại cho ông nhiều thành công lớn trong đời sống gia đình, trong kinh doanh và đặc biệt trong đời sống thăng tiến tâm thức giải thoát. Ông là người cư sĩ có đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ3 . Nhờ khéo vận dụng những lời dạy của bậc Đạo sư vào công việc làm ăn hợp phápsử dụng hợp lý các khoản lợi nhuận, Anàthapindika thành tựu được bốn niềm vui lớn của người gia chủ gọi là lạc sở hữu, lạc tài sản, lạc không mắc nợ, lạc không phạm tội4 .

Bên cạnh đời sống một người gia chủ thành đạttâm đạo nhiệt thành, Anàthapindika cũng được Đức Phật chỉ dạy nếp sống ly dục thiền định để phát triển năng lực tâm thứcnuôi dưỡng tuệ giác giải thoát. Bản kinh Hoan hỷ thuộc Tăng chi bộ ghi lời Thế Tôn khuyến khích ông Anàthapindika tu Thiền: Rồi Gia chủ Anàthapindika với khoảng năm trăm nam cư sĩ đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:

- Này Gia chủ, Ông đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng Ông chớ có bằng lòng với ý nghĩ: “Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh”.

Do vậy, này Gia chủ, Ông cần phải học tập như sau:

“Với phương tiện nào chúng ta thỉnh thoảng đạt đượcan trú hỷ do viễn ly sanh”. Như vậy, này Gia chủ, Ông cần phải học tập. Được nghe nói như vậy, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:

 - Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Khéo nói thay là lời nói này của Thế Tôn: “Này Gia chủ, Ông đã cung cấp các vật dụng cần thiết cho chúng Tỷ-kheo như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng này Gia chủ, Ông chớ có bằng lòng với ý nghĩ: ‘Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh’. Do vậy, Ông cần phải học tập như sau: ‘Với phương tiện nào, chúng ta sẽ thỉnh thoảng đạt đượcan trú hỷ do viễn ly sanh!’ Như vậy, này Gia chủ, Ông cần phải học tập”.

Bạch Thế Tôn, khi nào Thánh đệ tử đạt đếnan trú hỷ do viễn ly sanh, trong thời gian ấy, năm sự việc không xảy ra: Khổ và ưu liên hệ đến dục trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy.

Lạc và hỷ liên hệ đến dục trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Khổ và ưu liên hệ đến bất thiện trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Lạc và hỷ liên hệ đến bất thiện trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Khổ và ưu liên hệ đến thiện, trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Bạch Thế Tôn, khi nào Thánh đệ tử đạt đếnan trú hỷ do viễn ly sanh, trong thời gian ấy, năm sự việc này không xảy ra.

- Lành thay, lành thay, này Sàriputta, trong khi Thánh đệ tử đạt đượcan trú hỷ do viễn ly sanh, trong thời gian ấy, năm sự kiện không xảy ra cho người ấy: Khổ và ưu liên hệ đến dục trong thời gian ấy không xảy ra cho người ấy. Lạc và hỷ liên hệ đến dục trong thời gian ấy không xảy ra cho người ấy. Khổ và ưu liên hệ đến bất thiện trong thời gian ấy không xảy ra cho người ấy. Lạc và hỷ liên hệ đến bất thiện trong thời gian ấy không xảy ra cho người ấy. Khổ và ưu liên hệ đến thiện, trong thời gian ấy không xảy ra cho người ấy. Này Sàriputta, trong khi vị Thánh đệ tử đạt đượcan trú hỷ do viễn ly sanh, trong thời gian ấy năm sự kiện này không xảy ra cho người ấy.

Lời Phật khuyên ông Cấp Cô Độc tu Thiền và sự giải thích của Tôn giả Sàriputta về kết quả của công phu Thiền định cho chúng ta một hiểu biết hữu ích liên quan đến pháp môn tu tập Tăng thượng tâm (Adhicittabhàvanà).

Trước hết, Thiền được Thế Tôn định nghĩa là “sự chứng đạt và an trú hỷ do viễn ly sanh”. “Hỷ (pìti) do viễn ly sanh” tức là niềm vui của hành Thiền, niềm vui của tâm an tịnh, rời xa các cấu uế (tham-sân-si), rời xa các dục, các pháp bất thiện (năm triền cái). Đây chính là công năng đầu tiên của hành Thiền, được mệnh danh là “hiện tại lạc trú” (ditthadhammasukhavihàra)5 , tức người tu Thiền sau khi ly dục, ly các pháp bất thiện, bắt đầu nhiếp tâm trên một đối tượng hành Thiền thì lần lượt chứng được nội tâm an tịnh và định tĩnh đi đôi với các trạng thái thân tâm được nhẹ nhàng khinh anhỷ lạc sinh khởi và trào dâng gọi là “hỷ lạc do ly dục sanh”, “hỷ lạc do định sanh”, “xả niệm lạc trú”, “xả niệm thanh tịnh”. Bốn trạng thái Thiền định này là bốn cấp độ thanh tịnh và định tĩnh của tâm, được chứng đắc do công phu hành Thiền, loại trừ được năm triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi ngờ), tức các cấu uế của tâm, và phát triển năm Thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm). Người tu Thiềnđạt được bốn trạng thái tâm định tĩnh này thì được gọi là “chứng đạt và an trú hỷ do viễn ly sanh”, tức đạt được hân hoan an lạc nội tâm, gọi là xuất ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc6 ; cũng được gọi là “hiện tại lạc trú”, tức sống an lạc tại đây, ngay trong lúc hành Thiền; hành Thiền bao lâu thì được an lạc bấy lâu, như Đức Phật từng xác nhận Ngài ngồi Thiền, không di động thân thể, không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ liên tục trong một ngày một đêm, thậm chí trong bảy ngày bảy đêm7 .

Chính nhờ phương pháp hành Thiền, nghĩa là rời xa các dục, các pháp bất thiện (chỉ cho việc ngồi Thiền, loại trừ năm triền cái) và phát triển năm Thiền chi, nên người hành Thiền thoát khỏi các tập quán trói buộc thường tình của thế gian (hỷ, nộ, ái, ố), không còn bị các pháp khổ, ưu, lạc và hỷ thế gian chi phối, gọi là thoát khỏi khổ và ưu liên hệ đến dục, lạc và hỷ liên hệ đến dục, khổ và ưu liên hệ đến bất thiện, lạc và hỷ liên hệ đến bất thiện, khổ và ưu liên hệ đến thiện; thuần túy cảm giác lạc và hỷ xuất thế, liên hệ đến thiện, gọi là xuất ly lạc, độc cư ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc. Đây là kết quả lợi ích tốt đẹp của hành Thiền, giúp cho người tu Thiền đối trị được tham dục, thoát khỏi mọi vướng lụy sầu muộn thế gian, phát triển tâm thức giác ngộ, tìm thấy an lạc giải thoát trong đời sống hàng ngày.

Như vậy, người hành Thiền, chứng được hỷ do viễn ly sanh, thoát khỏi các tâm hành thế tục hay năm chuỗi cảm thọ bất thiện:

1. Khổ và ưu liên hệ đến dục, tức phiền não khổ đau khởi lên do không thỏa mãn lòng tham muốn năm dục trưởng dưỡng (sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu) hay do không thỏa mãn các lạc thú ở đời (tài, danh, sắc, thực, thùy).

2. Lạc và hỷ liên hệ đến dục, tức cảm giác sung sướng hạnh phúc khởi lên khi thụ hưởng năm dục trưởng dưỡng hay thỏa mãn các lạc thú thế gian.

3. Khổ và ưu liên hệ đến bất thiện, nghĩa là phiền não khổ đau khởi lên do cuộc sống bị các pháp xấu ác bất thiện (tham-sân-si, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác) chi phối và quầy rầy.

4. Lạc và hỷ liên hệ đến bất thiện, tức là cảm giác sung sướng thích thú khởi lên gắn liền với tham-sân-si, với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác.

5. Khổ và ưu liên hệ đến thiện, tức là phiền não khổ đau khởi lên do tinh tấn thực hành thiện pháp, tinh cần hành Thiền.

Trái lại, vị ấy thành tựu các tâm hành xuất thế hay bốn niềm vui lớn liên hệ đến giác ngộ:

1. Xuất ly lạc, tức niềm vui phát khởi do rời xa thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác; buông bỏ lối sống ác, bất thiện.

2. Độc cư lạc, tức là niềm vui của tâm thức thoát khỏi dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng; thoát ly dục tầm, sân tầm, hại tầm.

3. An tịnh lạc, nghĩa là niềm vui của nội tâm an tịnh, vắng bặt các cấu uế (tham-sân-si hay năm triền cái), không có bóng dáng của dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng; dục tầm, sân tầm, hại tầm.

4. Chánh giác lạc, tức niềm vui của tâm trong sáng thanh tịnh, thấy biết như thật, hướng đến đoạn tận các lậu hoặc, chứng quả Niết-bàn.

Nhìn chung, hành Thiền là pháp môn tu tậpcông năng chuyển hóa đời sống con người, làm trong sạch đời sống con người, làm lành mạnh đời sống con người, khiến cho thân tâm con người trở nên khỏe khoắn và an lạc, giúp con người thoát ly các pháp bất thiện đưa đến phiền não, tìm thấy an lạc trong các thiện pháp. Đó là lẽ sống thiết thực nâng cao phẩm chất con người, giúp con người phát triển đạo đức, tâm thứctrí tuệ; đồng thời đó là lẽ sống nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, giúp cho con người giảm thiểu các cảm giác lo âu sầu muộn trong đời sống thế tục, tăng trưởng các cảm thức thanh thản an lạc trong lối sống xuất thế. Nói cách khác, Thiền là bước ngoặt quan trọng của đời sống giải thoát (dần dần thoát ly các trói buộc thế gian nhờ kinh nghiệm chuyển hóa tự nội) do chính Đức Phật tự thân chứng nghiệm8 và chú tâm huấn luyện các đệ tử tu tập nhằm giúp cho họ tìm thấy hướng đi an lạc quyết chắc đạt đến giác ngộ.

Đức Phật khuyên ông Cấp Cô Độc tu Thiền tức là mong muốn người gia chủ cư sĩ này đi sâu hơn vào đạo lý giải thoát của Ngài, giảm thiểu dần các tập quán ham muốn mê đắm thế sự, thực nghiệm sâu hơn lối sống an tịnh tự nội để có được thân khỏe tâm an và kinh nghiệm giải thoát, một lối tu tập thiên về viễn ly, rất cần cho mục tiêu phát triển tuệ giác giải thoát.

Chắc chắn Anàthapindika đã dành thời gian cho việc thực tập Thiền định mỗi ngày, bởi các tài liệu còn lưu lại cho thấy ông rất ý thứctôn trọng việc hành Thiền của người khác9 . Ông cũng được xem là người có nếp sống an tịnh, tu tập an tịnh và yêu mến an tịnh10. Ngoài ra, do hành sâu về thiền quán (vipassanàbhàvanà), Anàthapindika chứng tỏ năng lực trí tuệ của mình trong nhận thức và đối thoại. Tài liệu Tăng chi bộ lưu một cuộc đối thoại giữa cư sĩ Anàthapindika và các du sĩ ngoại đạo đương thời, trong đó Anàthapindika tuyên bố quan điểm thực chứng của mình về cuộc đời khiến các du sĩ ấy rất ngạc nhiên nể phục và được Đức Phật tán thán, khuyên các Tỷ-kheo nên noi gương:

“Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì, Jetavana, tại khu vườn Anàthapindika. Bấy giờ gia chủ Anàthapindika, vào buổi sáng thật sớm đi ra hỏi Sàvatthì để yết kiến Thế Tôn. Rồi gia chủ Anàthapindika suy nghĩ: ‘Nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang Thiền tịnh. Cũng không phải thời để yết kiến các vị Tỷ-kheo đang tu tập về ý, các Tỷ-kheo tu tập về ý đang Thiền tịnh. Vậy ta hãy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo’…

Rồi Gia chủ Anàthapindika đi đến các du sĩ ngoại đạo ấy, sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Gia chủ Anàthapindika đang ngồi một bên:

- Này Gia chủ, hãy nói lên Sa-môn Gatama có kiến gì?

- Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của Thế Tôn.

- Này Gia chủ, Gia chủthể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama. Nhưng Gia chủ, hãy nói các Tỷ-kheo có kiến gì?

 - Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo.

 - Này Gia chủ, Gia chủthể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama, Gia chủthể không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo. Vậy này Gia chủ, hãy nói về kiến của gia chủ.

 - Thưa các Tôn giả, thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi. Nhưng các Tôn giả hãy trả lời về kiến của các Tôn giả trước. Rồi sau thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi. Khi được nói vậy, một du sĩ ngoại đạo nói với gia chủ Anàthapindika: ‘Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi’. Một du sĩ ngoại đạo khác nói với gia chủ Anàthapindika: ‘Vô thường là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến này khác là hư vọng. Như vậy là kiến của tôi’. Rồi một du sĩ ngoại đạo khác nói với gia chủ Anàthapindika: ‘Có biên tế là thế giới… không có biên tế là thế giới… mạng sống và thân thể là một… mạng sống và thân thể là khác… Như Laitồn tại sau khi chết… Như Lai không có tồn tại sau khi chết… Như Laitồn tại và không có tồn tại sau khi chết… Như Lai không có tồn tạikhông không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi’.

Khi nghe nói vậy, gia chủ Anàthapindika nói với các du sĩ ngoại đạo ấy:

- Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau: ‘Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi’. Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hay do duyên nghe tiếng người khác nói. Kiến ấy như vậy được sanh, được tác thành (hữu vi), do tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường; cái gì vô thường, cái ấy là khổ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước (dính vào); cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp nhận. Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau: ‘Vô thường là thế giới này… Như Lai không có tồn tạikhông không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi’. Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hoặc do duyên nghe tiếng người khác nói. Kiến ấy như vậy được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường; cái gì vô thường, cái ấy là khổ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước; cái khổ ấy, Tôn giả chấp nhận.

Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với gia chủ Anàthapindika:

- Này Gia chủ, tất cả kiến của chúng tôi đã được nói lên. Này Gia chủ, hãy nói lên kiến của gia chủ là gì?

- Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ, cái ấy là ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’. Tôi có kiến như vậy, thưa các Tôn giả.

 - Này Gia chủ, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp trước, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp nhận.

 - Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’. Như vậy là như thật khéo thấy với chánh trí tuệ. Và từ nơi khổ ấy, tôi như thật rõ biết sự xuất ly hơn thế nữa.

Khi nghe nói như vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy ngồi im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói lên lời.

Rồi gia chủ Anàthapindika, sau khi biết các du sĩ ngoại đạo ấy im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói lên lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Anàthapindika, câu chuyện với các du sĩ ngoại đạo ấy như thế nào thuật lại tất cả cho Thế Tôn rõ.

“Lành thay, lành thay, này Gia chủ. Như vậy, này Gia chủ, những kẻ ngu si ấy thường cần phải được bác bỏ với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp”. Rồi Thế Tôn với một bài pháp thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Gia chủ Anàthapindika. Rồi Gia chủ Anàthapindika, sau khi được Thế Tôn với bài pháp thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Rồi Thế Tôn, sau khi gia chủ Anàthapindika ra đi không bao lâu, bảo các vị Tỷ-kheo:

- Tỷ-kheo nào dầu đã được đầy đủ 100 năm an cư mùa mưa trong Pháp và Luật này, vị ấy cần phải như vậy, thường thường bác bỏ các du sĩ ngoại đạo, với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp, như gia chủ Anàthapindika đã khéo bác bỏ11.

Chú thích:
1. Kinh Nam Cư sĩ, Tăng chi bộ.
2. T.W. Rhys Davids & H. Oldenberg, Vinaya Texts, Part III, tr.186.
3. Kinh Bốn nghiệp công đức, Tăng chi bộ.
4. Kinh Không nợ, Tăng chi bộ.
5. Kinh Định, Tăng chi bộ.
6. Kinh Ví dụ Con chim cáy, Kinh Vô tránh phân biệt, Trung bộ.
7. Tiểu kinh Khổ uẩn, Trung bộ.
8. Tiểu kinh Khổ uẩn, Đại kinh Saccaka, Trung bộ.
9 &10&11. Kinh Kiến, Tăng chi bộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1952)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2068)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2255)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2526)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2557)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2092)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2543)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1881)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1981)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2262)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2786)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1703)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1615)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1808)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1643)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2219)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2379)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2091)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1875)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1792)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1973)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1707)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2694)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1856)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2186)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2151)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2498)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1815)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2001)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1869)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2045)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2616)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3686)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2292)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2294)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1678)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1985)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2317)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2323)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2161)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3125)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2143)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2536)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2053)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1983)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2192)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2492)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2058)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2453)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2420)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant