Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chánh Kiến – Trái Tim Của Đạo Bụt

03 Tháng Mười 202017:54(Xem: 4161)
Chánh Kiến – Trái Tim Của Đạo Bụt
Chánh Kiến – Trái Tim Của Đạo Bụt  

HT. Thích Nhất Hạnh

Chánh Kiến – Trái Tim Của Đạo Bụt

Chánh kiến là trái tim của đạo Bụt

Nền tảng thực tập giáo lý đạo Bụt không dựa trên niềm tin về luân hồi, về nghiệp và quả báo. Trái tim của đạo Bụt dựa trên một cái thấy rất sáng về Bốn sự thật, cái thấy đó là chánh kiến. Cái thấy đó rất sâu, ta phải đạt được bằng thiền quán. Niệm và định càng vững chãi thì cái thấy càng sáng.

Tuệ, có khi còn được gọi là chánh kiến    (right view, la vue correcte) tức là cái thấy đúng. Có cái thấy đúng thì tư duy của ta sẽ đúng gọi là chánh tư duy   . Muốn có cái thấy đúng chúng ta phải thực tập chánh định và chánh niệm. Sự thực tập trong đạo Bụt bắt đầu từ chánh niệm, chánh định và từ đó sẽ phát khởi ra chánh kiến. Đạo đức học của đạo Bụt căn cứ trên cái thấy sáng và đúng.

Thân, khẩu, ý là nghiệp

Phải có cái thấy đúng thì ta mới tư duy đúng và hành động đúng. Có cái thấy đúng (ý) thì ta có lời nói (ngữ) đúng tức chánh ngữ   , hành động (thân) đúng tức chánh nghiệp   . Thân, khẩu, ý là sự tạo nghiệp. Trong một ngày chúng ta tạo không biết bao nhiêu là nghiệp, nghiệp lành hay nghiệp dữ. Nếu phát khởi tâm niệm tha thứ, thương yêu thì ta tạo nghiệp tốt, còn nhưng nếu phát khởi tư tưởng giận hờn, hận thù, chán đời thì ta tạo nghiệp xấu. Mỗi ngày ta tạo nghiệp, nhưng nghiệp không có nghĩa là xấu. Nghiệp có thể tốt, có thể xấu.

Mỗi ngày chúng ta nói, viết thư hay gửi e-mail. Những điều chúng ta nói, viết có thể là nghiệp tốt hay nghiệp xấu. Những điều mình nói hay viết có thể làm cho mình và cho người khác có hạnh phúc.

Chúng ta sử dụng thân của mình để hành động. Hành động của cơ thể mình có tính cách bảo hộ, cứu độ, che chở thì đó là nghiệp tốt. Nếu hành động đó có tính cách phá hoại, giết chóc, tàn hại thì đó là nghiệp xấu. Thân, khẩu, ý là ba mặt của hành động.

Chiếc đũa thần chánh kiến

Thường thì chúng ta nghĩ rằng ta chỉ có thể làm hạnh phúc cho người khi ta có nhiều tiền, khi ta là triệu phú vì nếu có nhiều tiền thì ta có thể ban phát cho người. Ta mơ làm vua hay làm tổng thống, vì nếu có quyền trong tay thì ta có thể ban ân huệ cho người. Ta nghĩ nếu có tiền bạc, quyền lực, danh vọng thì ta có thể làm hạnh phúc cho mình và cho người khác. Đó là sự mê tín, tại vì nhìn chung quanh chúng ta thấy nhiều người có tiền bạc, quyền hành, danh vọng nhưng họ rất đau khổ và không giúp được cho ai. Chúng ta cảm thấy khó thở tại vì ta không có hạnh phúc và không làm được hạnh phúc cho người khác.

Nhưng theo giáo lý Tứ thần túc thì khác. Trong điều kiện của ta hiện bây giờ, dù không có một thước đất cắm dùi, dù không có trương mục hàng triệu đô la, ta vẫn có thể làm hạnh phúc được cho người khác. Ngay bây giờ và ở đây ta có thể làm phép thần thông. Ta là một bà tiên với chiếc đũa thần, ta có thể làm hạnh phúc cho người khác ngay bây giờ và ở đây. Khi người kia hạnh phúc thì ta cũng hạnh phúc. Người kia là ai? Người kia đang ở gần đây hay là đang ở bên Mỹ, đang ở Việt Nam? Mình có thể làm cho người đó hạnh phúc bằng cách phát ra một tư tưởng của sự tha thứthương yêu, có chất hiểu và thương. Mình đã từng phát khởi một tư tưởng thương, tha thứ để tư tưởng ôm lấy người kia hay chưa? Hay là mình chỉ tiếp tục trách móc người đó? Sở dĩ mình chỉ trách móc, hờn oán mà không thương, không đùm bọc, che chở được người đó là tại vì mình không có chánh kiến.

Chánh kiến là thấy được nỗi khổ niềm đau của người đó, nếu thấy được thì tự nhiên mình hết giận người đó. Mình muốn nói hay làm điều gì đó để người đó bớt khổ. Có được tư tưởng đó đã là một phép lạ, nó làm cho mình khoẻ ngay. Mình có thể gọi điện thoại hay viết một lá thư trong đó đầy tràn những lời hiểu biết thương yêu. Khi nói hay viết ra những lời như vậy thì mình rất khoẻ và người đó cũng khỏe khi nghe hay đọc những lời đó. Đó là phép lạ mà mình có thể làm được ngay bây giờ. Mình hãy làm ngay trưa hôm nay đi! Ngồi ăn cơm mình hãy nghĩ tới người đó, người đó có bao nhiêu là bế tắc, hệ lụy, khổ đau mà lâu nay không được ai giúp. Thấy được như vậy là mình có chánh kiến.

Có cái thấy đúng thì tự nhiên mình tư duy đúng. Tư duy đúng là tư duy có chất liệu hiểu và thương và khi chất liệu hiểu và thương được chế tác ra là ta cảm thấy khoẻ ngay. Một tư tưởng tha thứ, thương yêu, đùm bọc làm cho ta hết bệnh trong thân cũng như trong tâm. Nó là một năng lượng chữa trị mà ta được thừa hưởng trước cả người kia. Nhờ có tâm niệm thương yêu, tha thứ mà ta có thể và làm những điều giúp cho người kia bớt khổ ngay trong ngày hôm nay. Chỉ cần năm phút nhìn cho sâu để thấy được nỗi khổ niềm đau của người đó thì ta đã phát khởi được một tư tưởng từ bi. Đó là một phép lạ!

Ta ngồi xuống viết một là thư hay ta thở rồi điện thoại nói một câu thì tình trạng có thể thay đổi liền lập tức. Đó là gì nếu không phải là một phép lạ? Ta không cần phải có 100 triệu đô la trong trương mục, hay làm bộ trưởng, tổng thống mới có thể làm phép lạ. Với con người phàm này của ta, nhưng nếu có chất thánh ở trong thì ta đã có thể làm được phép lạ ngay bây giờ, ta có thể làm bà tiên hay ông tiên ngay trong ngày hôm nay. Mình phải thực tập cái gọi là bố thí, hiến tặng. Mình rất giàu nên mình phải thực tập hiến tặng (dāna), tiếng Anh là generosity. Vì trái tim của mình nhỏ bằng trái sim nên mình không thể làm hạnh phúc cho người kia. Bây giờ ta làm cho trái tim của mình lớn ra. Trước tiên là ta chấp nhận được mình. Trong chúng ta có người không tự chấp nhận được mình. Ta tự trách móc, khinh khi mình. Trái tim chúng ta nhỏ quá nên ta không tự thương được mình. Và nếu ta không thương được chính mình thì làm sao ta có thể thương được người khác?

Muốn làm cho trái tim lớn lên thì ta phải có cái thấy, thấy những nỗi khổ niềm đau của chính mình. Thấy được thì tự nhiên thương được. Thấy được nổi khổ niềm đau của chính mình thì mình thấy được nỗi khổ niềm đau của người kia. Vì vậy cái thấy rất quan trọng, nó có thể thay đổi tư duy của mình, khiến mình nghĩ, nói và làm những điều đưa đến hạnh phúc ngay lập tức. Trái tim của mình phải có lượng lớn (capacity) gọi là tâm lượng  . Trong Truyện Kiều Kim Trọng nói: Lượng xuân dù có hẹp hòi, có nghĩa là cô hãy mở lòng ra để thương tôi. Một vị bồ tát là một người có tâm lượng rất lớn. Trong kinh, bài chúc tán ngày mồng một có câu ca ngợi Bụt Thích Ca:

Tâm bảo thái hư

Lượng châu sa giới

“Tâm bảo thái hư” có nghĩa là trái tim của Bụt ôm trọn cả thái hư. “Lượng châu sa giới” có nghĩa là lượng của Ngài bao trùm hết cả tam thiên đại thiên thế giới. Nếu có tâm lượng lớn, ta sẽ có rất nhiều không gian. Tâm lượng của mình có lớn hay không là do mình có cái thấy hay không. Tất cả nền đạo lý Phật giáo được xây dựng trên nền tảng gọi là tuệ giác (prajña) tức là cái thấy. Trên cái thấy đó chúng ta dựng lên sự thực tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp. Thực tập như thế thì chúng tahạnh phúc và có thể đem hạnh phúc cho người ngay lập tức.

Ta có thể làm phép lạ ngay bây giờ và ở đây nhờ ba chiếc đũa thần mà chiếc đũa thần đầu tiên là tư duy của ta. Ta có khả năng phát khởi ra một tư tưởng tha thứ và muốn giúp người, khi đó ta cảm thấy khoẻ và sự trị liệu thân tâm xảy ra liền. Tuy ta chưa làm gì cả nhưng người kia cũng đã bắt đầu hưởng được, tại vì những gì xảy ra trong ta có ảnh hưởng đến thế giới ngay lập tức. Ta có tư tưởng đen tối, hận thù thì thế giới sẽ tối sầm lại ngay. Nếu tư tưởng đó là từ bi, chấp nhận, thương yêu thì thế giới sẽ sáng lên lập tức.

Ta phải nhớ rằng không phải là ta không có quyền lực. Quyền lực chính trị, danh vọng hay tiền tài chưa phải là quyền lực thật sự, vì chúng có thể làm cho người ta hệ lụy, khổ đau. Nhưng ta có sức mạnh của thương yêu (the power of love). Trong ta có hạt giống của hiểu biết, từ bi. Nếu biết tiếp xúc với những hạt giống đó thì tự nhiên ta có được năng lượng thương yêu. Ta không có tiền, không có địa vị, quyền hành trong xã hội nhưng ta có quyền lực rất lớn là quyền lực thương yêu. Ta có quyền thương yêu mình và thương yêu người khác. Và mình có thể thực hiện được điều đó ngay ngày hôm nay. Sự thực tập hơi thở và bước chân có thể làm cho quyền lực thương yêu lớn lên.

Ngoài chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chúng ta có chánh mạng  命tức phương tiện sinh sống chân chánh và chánh tinh tấn  精. Đó là bát chánh đạo tức con đường chuyển hóa khổ đau và đưa tới hạnh phúc. Đó mới là cốt tủy của giáo lý đạo Bụt mà không phải là giáo lý luân hồi, nghiệp hay quả báo. Tài năng của Bụt không phải ở chỗ sáng tác ra giáo lý về luân hồi, nghiệp và quả báo. Tài năng của Bụt là phát khởi ra và đưa cho chúng ta một con đường. Đó là con đường bát chánh dựa trên cái thấy Tứ diệu đế tức Bốn sự thật. Cái thấy này là cái thấy về Tứ đế  .

Bắt đầu từ giờ phút này quí vị, người xuất gia cũng như tại gia, đừng nên có mặc cảm, đừng nghĩ là mình không có quyền năng (helpless). Với niệm, định chúng ta có thể có được cái thấy, trước hết là thấy được khổ đau của mình. Hiểu được khổ đau của mình thì tình thương trào lên và mình chấp nhận được mình. Hiểu được khổ đau của mình rồi thì tự nhiên mình hiểu được khổ đau của người khác. Mình không còn buồn, giận, trách móc nữa. Mình muốn làm, muốn nói điều gì đó cho người đó bớt khổ. Chuyện đó có thể xảy ra ngay trong ngày hôm nay. Chúng ta đừng có mặc cảm là mình bất lực. Chúng taquyền lực, quyền lực của thương yêu. Khả năng của thương yêu dựa trên khả năng của hiểu biết, trước hết là hiểu khổ đau của chính mình và sau đó là hiểu khổ đau của người khác. Bắt đầu hôm nay chúng ta sẽ hành xử như một bà tiên hay một ông tiên có khả năng làm hạnh phúc cho mình và cho người khác. Chúng ta đừng chờ đợi một lực lượng bên ngoài. Trái tim của đạo Bụt là chánh kiến. Chánh kiến làm cho con người trở thành một vị Bụt, một người phàm trở thành ra một vị thánh. Tất cả sự thực tập trong đạo Bụt đều nhắm tới mục đích duy nhất là có được cái thấy (chánh kiến).

Chánh kiến là tuệ, là sự nghiệp của người tu

Chánh kiến (right view) là cái thấy đúng, xác thực. Louis de la Vallée Poussin, một học giả người Bỉ, đã dịch chữ chánh kiến là la bonne vue, nhưng bây giờ người ta dịch chữ chánh kiến là la vue juste.

Chánh kiến là cái thấy đúng với sự thật. Sự thật có hai tầng:

  • tầng thứ nhất là sự thật ước lệ tức thế tục đế.
  • tầng thứ hai là sự thật tuyệt đối tức thắng nghĩa đế.

Khi Đức Thế Tôn dạy “chánh kiến là một cái thấy vượt thoát có-không“ thì đó là chánh kiến thuộc thắng nghĩa đế. Câu nói “có sinh, có diệt, có có, có không, có người, có ta“ cũng là một loại sự thật, nhưng là sự thật ước lệ. Chánh kiếntuệ 慧 (insight), là một cái thấy trực tiếp, là một trực giác không đi ngang qua lý luận, suy tư. Cái thấy trực tiếp là sự chứng ngộ được biểu hiện ra khi chúng ta có đủ chánh địnhchánh niệm.

Tuệ là cái quan trọng nhất đối với người tu, là cái mà ta tìm cầu đêm ngày. Tuệ là sự nghiệp của người tu. Trong kinh như kinh Bát Đại Nhân Giác tức kinh Tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân có câu: Duy tuệ thị nghiệp (惟 慧 是 業). Tuệ là sự nghiệp mà ta đeo đuổi trong cuộc đời. Ta chỉ lấy trí tuệ để làm sự nghiệp của đời mình. Người đời thường chạy theo danh vọng thì danh là sự nghiệp của họ:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.” (Nguyễn Công Trứ)

Những doanh thương thì chạy theo sự giàu sang, sự nghiệp của họ là một gia tài đồ sộ; còn đối với những ông tướng thì sự nghiệp của họ là một cuộc chiến thắng vẻ vang. Sự nghiệp của người tu là tuệ, tại vì tuệ đem tới tự do, hạnh phúc. Ngày xưa trường đại học Vạn HạnhViệt Nam do tôi góp sức tạo dựng lúc đầu đã lấy bốn chữ duy tuệ thị nghiệp làm phương châm sống và hành trì cho học tăng.

Chánh kiến đưa tới chánh tư duy

Khi có chánh kiến thì tất cả tư duy của ta là chánh tư duy 正 思 惟 (right thinking). Chánh tư duytư duy đưa tới tuệ , tới hiểu và thương, giúp cho ta bỏ đi những kỳ thị, so sánh, lo lắng, sợ hãi. Tư duy có hai phần: tầm 尋 (vitarka) và từ 伺 (vicāra).

Tầm, tiếng Phạn là vitarka. Khi có sự tiếp xúc ví dụ như mắt ta tiếp xúc với sắc, tai ta tiếp xúc với âm thanh, ý ta tiếp xúc với pháp, mũi tiếp xúc với mùi hương thì trong đầu ta phát sinh ra những ý niệm gọi là tưởng (notion), tiếng Phạn là samjñā. Tưởng là những hạt rất nhỏ như những hạt bụi, những hạt bụi nhỏ đó kết lại thành tư tưởng (thinking). Mắt ta xúc chạm với sắc làm sinh những cái tưởng, tai ta xúc chạm với âm thanh sinh ra những cái tưởng, hình hài ta xúc chạm với cảm xúc làm sinh ra những cái tưởng.

Tầm là bắt đầu suy nghĩ, bắt đầu kết hợp những cái tưởng lại với nhau, giống như những nguyên tử bắt đầu kết hợp lại để làm ra vật chất. Vật chất có những nguyên tử rất nhỏ, còn tâm linh có những cái tưởng rất nhỏ. Những cái tưởng đó phát sinh ra từ xúc tức là từ sự xúc chạm giữa sáu căn với sáu trần. Những nguyên tử kết hợp lại thành chất này hay chất khác, còn những cái tưởng kết hợp lại thành tư duy, tức tầm và từ. Các nguyên tử (atom) tới với nhau làm ra những phân tử (molecule), và những phân tử kết hợp lại với nhau làm thành vật chất (cell, tissue). Những cái tưởng kết hợp lại với nhau thành những tầm (initial thinking), và khi tầm đi sâu hơn nữa thì có sự phân biệt, so sánh, ước đoán gọi là Từ 伺 (discussive thinking)

Tầm và từ được ví như con ong tới thăm một bông hoa. Khi con ong vừa đáp xuống bông hoa thì gọi là tầm (initial thought), tư duy còn đang ở giai đoạn khởi đầu, chưa có sự phân biệt, so sánh. Đến khi con ong đi khám xét bông hoa để lấy được phấn hoa thì gọi là từ. Trong đầu của chúng ta luôn luôn có những nguyên tử, tâm của ta được làm bằng những hạt rất nhỏ gọi là tưởng. Những hạt tưởng tới với nhau làm thành tầm (initial thinking). Khi tầm đi sâu hơn, so sánh, ước lượng, tưởng tượng thì gọi là từ (discussive thinking). Một bên là vật chất còn một bên là tinh thần, vật chất thì do những hạt nguyên tử rất nhỏ làm ra và tinh thần thì do những hạt tưởng rất nhỏ làm ra. Trong một giây trong đầu của ta phát ra không biết bao nhiêu là tưởng. Tưởng do xúc và thọ làm phát sinh ra.

Xúc (sparśa), tiếng Anh là contact. Sự xúc chạm giữa sáu căn và sáu trần tạo ra những cảm thọ (vedanā). Và xúc, thọ tạo ra tưởng. Xúc cũng có thể tạo ra sự chú ý gọi là tác ý (manaskāra), tiếng Anh là attention. Ví dụ như đang suy nghĩ lung tung thì ta nghe có tiếng chuông, tai ta xúc chạm với tiếng chuông. Tự nhiên ta chấm dứt sự suy tư và tác ý tới tiếng chuông. Chú ý tới tiếng chuông, ta buông bỏ suy tư, nhiếp tâm vào hơi thởthiết lập lại thân tâm trong giây phút hiện tại. Tác ý đó gọi là như lý tác ý tức là tác ý tốt (yoniso-manaskāra), tiếng Anh là appropriate attention. Nghe tiếng chim hót, tiếng thông reo, thấy hoa nở hay thấy một người bạn tu đang đi là những như lý tác ý. Nếu chú ý tới những cái làm cho tâm mình loạn, mình mất tự chủ, mình giận, mình buồn, mình sợ hãi, mình bị vướng mắc, thì đó là phi như lý tác ý (anyoniso-manaskāra), tiếng Anh là inappropriate attention. Người tu phải thực tập như lý tác ý để đừng bị kéo theo những cái không có lợi cho sự tu học của mình.

Ban đầu có những cái tưởng do sự xúc chạm, sự chú ý và do cảm thọ làm phát sinh ra. Những cái tưởng đó tới với nhau làm thành tầm và từ. Và chúng ta có thể đi tới một quyết định tức là  思 (cetanā), tiếng Anh là volition. Tư là ước muốn, ta quyết định chạy theo, quyết định chiếm đoạt hay quyết định lìa bỏ. Tác ý, thọ, tưởng đưa tới tư duy (thinking), và tùy theo tư duy đó là chánh tư duy (right thinking) hay là tà tư duy (wrong thinking) mà ta phản ứng khác nhau.

Ví dụ như khi ta xúc chạm với những cái không như ý mình thì ta thấy bực, ta giận, ta muốn tẩy chay cái đó, ta muốn bỏ chạy hay muốn trừng phạt. Đó là tư, tức là quyết tâm của ta muốn phản ứng lại, như chạy theo, hay trừng phạt, hay bám lấy. Nhưng nếu có niệm, định, tuệ xen vào thì ta sẽ có một thái độ khác. Người đó nói một câu hay làm một hành động không dễ thương, nhưng nếu ta thấy và hiểu được thì tự nhiên ta không còn có ý muốn bỏ đi, muốn trừng phạt hay trả thù mà ta muốn nói một câu gì, làm một điều gì đó để cho người kia bớt khổ. Tư (volition), xúc (contact), thọ (feeling), tưởng (notion, perception), tác ý (attention) là những hạt tâm lý luôn luôn có mặt trong bất cứ giờ phút nào của đời sống hằng ngày.

(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai trong khóa An Cư Kết Đông 2012-2013)
(langmai.org)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16675)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24143)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20571)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18272)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19847)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14844)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12971)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13955)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13147)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14008)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17636)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15397)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14691)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14455)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17852)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21896)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20605)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25133)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16878)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14711)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18980)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22001)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25281)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15770)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20723)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17013)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18632)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20021)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39307)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31510)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36014)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23865)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26548)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant