Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cội Nguồn Thơ: Nơi Vô Cùng Tịch Lặng

25 Tháng Mười Hai 202018:37(Xem: 4304)
Cội Nguồn Thơ: Nơi Vô Cùng Tịch Lặng

 Cội Nguồn Thơ: Nơi Vô Cùng Tịch Lặng


Nguyên Giác

 coi nguon

Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâmtoàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.

Chúng ta có thể kinh nghiệm được cái tịch lặng. Nó không phải là âm thanh, cũng không phải là cái vô thanh. Khi chúng ta gõ lên một tiếng chuông, tịch lặng là cái bao trùm cả ba thời của tiếng chuông, hiển lộ trước, trong khi và sau khi tiếng chuông tắt. Cho nên, cái tịch lặng tận cùng, vẫn nằm sẵn trong âm thanh và xuyên suốt qua ba thời quá-hiện-vị-lai của âm thanh. Đó là cái tịch lặng không dựa vào đâu hết, và là tận cùng hạnh phúc. Do vậy, trong bài Kệ 134 của Kinh Pháp Cú, Đức Phật nói rằng nếu bạn giữ tịch lặng như một cái chiêng (cồng) bể, bạn sẽ chứng Niết Bàn.

Rất ít nhà thơ viết về cái tịch lặng, cái tận cùng của ngôn ngữ. Thơ là lời nói, là chữ viết, do vậy không dễ viết lên được cái tận cùng và là cái bao trùm của ngôn ngữ. Một số nhà thơ đã viết lên cái kinh nghiệm về tịch lặng, trong đó có lẽ nổi tiếng nhất là Ba Tiêu (Basho), một nhà thơ Nhật Bản của thế kỷ 17. Một trong những bài thơ nổi tiếng của Ba Tiêu (1644–1694) là viết về sự tịch lặng sâu thẳm hiển lộ khi tiếng ve sầu kêu ngấm vào trong đá. Bài thơ Ba Tiêu viết theo thể thơ haiku, ba dòng, khi lên núi thăm Chùa Yama-dera vào năm 1689.

Xin dịch bài thơ “Chùa Núi” như sau:

Tịch lặng sâu thẳm
tiếng kêu của ve sầu
ngấm vào trong đá.

            —Matsuo Basho (1644–1694)

Một bài thơ khác của Ba Tiêu, nhan đề là Gió Mùa Thu, cũng nói về cái đẹp của tịch lặng khi nhà thơ đứng giữa trận gió mùa thu. Bài thơ xin dịch như sau.

Tôi có nên nói một lời
môi tôi lạnh rồi
giữa trận gió thu.

Đọc lại cuộc đời của Ba Tiêu, chúng ta sẽ thấy rằng phải trải qua trăm cay nghìn đắng trong đời rồi mới tới lúc nhìn thấy cái tịch lặng sâu thẳm trong tiếng ve sầu ngấm vào đá núi. Không chỉ được xem như là nhà thơ nổi tiếng nhất thời kỳ Edo, ông còn là một thiền sư đã kiến tánh. Các tài liệu, trong đó có Wikipedia, ghi rằng ông có tên đầy đủ là Matsuo Bashō (Tùng Vĩ Ba Tiêu), sinh trong một gia đình samurai, và nổi tiếng làm thơ hay từ thời niên thiếu. Năm 1666, ông đến Kyoto và sống ở đây 5 năm, tiếp tục đọc văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư pháp. Mùa xuân năm 1672, sau một thời gian về quê chừng vài tháng, ông dời lên sống ở Edo (nơi bây giờ có tên là Tokyo).  Trong những năm này, ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau nhưng dần dần cảm thấy mình chỉ hợp với văn học, ông bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai, một thể loại thơ trào lộng, nhẹ nhàng và phóng túng, vốn rất thịnh hành trong thời Tokugawa.

Sau khi theo học Thiền Tông với nhà sư Phật Đỉnh (Butchō), một Thiền sư dòng Lâm Tế, Ba Tiêu trải qua một số kinh nghiệm kiến tánh. Những kinh nghiệm giác ngộ được ông ghi lại trong những bài thơ, đặc biệt là những tác phẩm được hình thành trong thập niên cuối đời của ông. Năm 1682 ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (Ba Tiêu). Năm sau ông trở lại Edo và dựng lại "Ba tiêu am". Ba Tiêu sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (Tiêu Phong), ẩn ý về đời người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), và dần dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành bất hủ haiku. Hai bài thơ vừa dịch trên là làm theo thể haiku.

Đọc thơ Ba Tiêu, chúng ta có thể cảm nhận được cái tịch lặng vô cùng tận đã nằm sẵn trong chữ và bên kia chữ. Bất kỳ ai sống được cái tịch lặng trong từng chữ và bên kia chữ, đó chính là giải thoát, vì từng khoảnh khắc đó đã là bờ kia, là xa lìa tham sân si. Bạn có thể thử nghiệm thế này: bạn ngồi làm thơ, với một tờ giấy và cây bút đặt trên bàn, nghĩ tới một ý thơ hiện ra ngoài cửa sổ, thí dụ gió ngoài vườn thổi bay nghiêng làn mưa bụi, hay ánh trăng ló ra ngoài cửa sổ. Nếu không thấy ý thơ nào, bạn có thể nghĩ tới viết xuống giấy vài câu trong Bát Nhã Tâm Kinh. Bạn viết từng chữ nghĩ tới, và cảm nhận rằng cái-gọi-là-bạn đang chết đi theo dòng mực hiện ra lên trang giấy, bạn nghĩ rằng tim bạn sẽ ngừng đập ngay khi ngòi bút nhấc lên để ghi chữ khác. Như thế, bảo đảm rằng bạn sẽ kinh nghiệm được cái tịch lặng đang ngấm vào mắt tai mũi lưỡi thân ý và cũng ngấm trọn khắp ba cõi sáu đường. Đó cũng là Thiền.

Một nhà thơ Nhật Bản cũng ưa thích tịch lặng là Thiền sư Ryokan (1758 – 1831). Ryokan ra đời trong năm 1758, tại ngôi làng hẻo lánh ven biển Izumozaki, thuộc tỉnh Echigo, bây giờ gọi là Quận Niigata. Vùng này, Honshu phương bắc, còn đuợc gọi là “xứ tuyết,” nơi các trận tuyết mùa đông dày ngập tới nổi buộc cư dân phải rời nhà và vào lại nhà họ bằng tầng [lầu] thứ nhì. Quận cũng khét tiếng về một số trận động đất tệ hại nhất trong lịch sử Nhật Bản, và nổi tiếng với hòn đảo Sado dễ thương, nơi lưu đày loạn quân và là nơi có những mỏ vàng được các tướng quân khai thác. Cha của Ryokan, Inan (1738—95), là người được kế thừa cha truyền con nối làm trưởng làng, và là một tu sĩ Thần Đạo. Inan cũng là một nhà thơ mà vài người ghi nhận là có liên hệ xa với trường phái thơ hài cú Basho.

Ryokan làm sa di ở Kosho-ji, ngôi chùa Thiền Tào Động địa phương, trong nhiều năm. Khoảng năm 1780, thiền sư Kokusen (viên tịch 1791) viếng thăm Kosho-ji, và Ryokan, người cảm xúc thâm sâucách sống nghiêm túc và chân thật của vị thầy, mới xin và được phép để chính thức trở thành môn đệ của Kokusen. Sau đó, họ cùng nhau trở về chùa Entsu-ji, ngôi tự viện của Kokusen tại Tamashima (bây giờ là Quận Okayama). Chùa Entsu-ji chỉ nhỏ thôi, dễ thương, gồm một hồ sen và rừng tre đẹp, nằm trên một ngọn đồi nhìn ra hải cảng Tamashima. (Hầu hết các khu nhà từ thời Ryokan bây giờ vẫn còn.) Tamashima là một trung tâm giao thương thịnh vượng, và chùa Entsu-ji đã lớn dậy dưới hướng dẫn của Kokusen, không bao giờ dưới 40 sư đang tu học. Cũng như vị thầy Kaso của Ikkyu, và vị thầy Shoju của Hakuin, Kokusen là một vị thầy có lối dạy cụ thể, người tuyên bố kiều Thiền của mình gồm cả việc “khiêng đá và đổ đất.” Nghĩa là, tu Thiền phải thực hiện ngay giữa các việc làm hàng ngày trong đời thường.

Với cương vị người nối pháp của Kokusen, một trong những vị Thiền sư Tào Động lớn nhất lúc đó, Ryokan có thể dễ dàng giữ chức trụ trì một chùa lớn, nhưng những năm tự nguyện sống khó nghèo và tự do trên các cánh đồng đã làm cho sư không thích bị ràng buộc với gánh nặng ngôi chùa. Không kế hoạch cụ thể nào trong đầu, Ryokan năm 40 tuổi về lại nơi mình ra đời, dọc đường vui với những nơi có cảnh đẹp và các nơi linh thiêng của Nhật Bản. Một lần, một tên trộm nhầm lẫn vào am Gogo-an, nhưng dĩ nhiên không thấy gì giá trị. Thất vọng, tên trộm mới lấy chiếc mền cũ và tả tơi và chiếc bồ đoàn thiền tọa của sư. Khi Ryokan về lại căn lều, thấy chuyện xảy ra mới viết bài thơ hài cú sau:

Tên trộm để lại phía sau—
mặt trăng
nơi cửa sổ.

Là một ẩn tu, Ryokan ngồi trên thiền sàng và sống nhiều phần hệt như các vị tổ sư Thiền xa xưa, tìm giác ngộ sâu trong các rặng núi. Sau đây là một bài thơ Ryokan tự ghi lại về nếp sống của ngài, ngồi tịch lặng, xài tiền của mục đồng (chăn trâu), làm bạn với ánh trăng.

Trong vắng lặng, bên cửa sổ trống
Ta ngồi thiền tọa, mặc phẩm phục trang nghiêm,
rún và mũi thẳng đường, tai song song với vai
Ánh trăng ngập cả phòng;
mưa đã ngưng, nhưng mái hiên còn nhỏ giọt.
Toàn hảo giây phút này—
trong tánh không vô tận, hiểu biết ta thẳm sâu.
.
Vào đêm, sâu trong núi, ta ngồi thiền
chuyện nhân gian không bao giờ tới đây;
tất cả đều vắng lặng và rỗng rang,
nhang đã tàn trong đêm vô tận
áo ta đã đẫm sương.
Không ngủ được, ta bước vào rừng—
đột nhiên, trên đỉnh cao, trăng tròn hiện.
.
Đời ta nghèo, nhưng tâm ta sáng tỏ
khi ta qua, ngày lại ngày
trong lều cỏ này.
.
Như dòng suối nhỏ len lỏi qua
các vách núi rêu, ta cũng lặng lẽ
trở thành sáng tỏtrong trẻo.
.
Khi các niệm đã vắng cả rồi
ta lẩn vào rừng pháp và gom nhặt
một xấp tiền của mục đồng.
.
Rách rưới và tả tơi, rách rưới và tả tơi
rách rưới và tả tơi là đời này.
Lương thực? Rau cỏ dại bên đường.
những bụi cây mọc quanh lều ta.
trăng và ta thường ngồi chung cả đêm,
Và hơn một lần, ta đi lạc giữa rừng hoa dại,
quên lối về nhà.
Không ngạc nhiên gì, ta rời khỏi chúng:
làm sao một ông sư khùng như thế sống trong chùa?
              ----
RYOKAN (1758 – 1831)

.

Làm thế nào bước vào cõi tịch lặng? Đọc kỹ Kinh Phật, chúng ta sẽ thấy rất nhiều khi, Đức Phật chỉ nói có một lời thôi. Không nói nhiều, tất cả pháp đều đưa về một chữ thôi. Thí dụ, như Kinh Bahiya, tất cả các pháp tóm gọn về một chữ Như. Trong một chữ Như đã có sẵn đủ giới, định, huệ. Thí dụ khác, như với một số kinh trong Kinh Tập, phẩm Qua Bờ Kia, tất cả các pháp tóm gọn về một chữ Không. Trong cái nhìn của rỗng rang vô tướng, tất cả giới, định, huệ đã sẵn đủ, tròn đầy. Ngay cả khi chúng ta đứng ở một góc rừng, với mưa gào, gió thét, chúng ta vẫn thấy cái tịch lặng bao trùm tất cả và thấy tâm mình là Như, là Không.

Trong tận cùng của Phật Giáo, tịch lặng là nơi không thấy có một pháp nào để nương tựa. Đó cũng là khi Huệ Năng (638-713) dạy Huệ Minh rằng khi tâm rời các duyên (tức là: không dựa vào những cái được thấy, được nghe…), khi tâm không sanh một niệm (tức là: không một chữ nào dấy lên trong tâm), khi tâm không nghĩ thiện hay ác (cũng là: không nghĩ có/không, lành/dữ, ta/người…), thì sẽ hiện ra cái bao trùm và xuyên suốt hết tất cả lời và không-lời, ngôn và vô-ngôn, thanh và vô-thanh, và đó là cái tịch lặng vô cùng sâu thẳm. Độc giả có thể kinh nghiệm được, hãy cứ thử đơn giản như thế.

Trong Kinh Pháp Bảo Đản, bản dịch của Thầy Duy Lực, trích:

Huệ Minh đảnh lễ nói rằng: Mong hành giả vì tôi thuyết Pháp. Huệ Năng nói:Ông đã vì Pháp mà đến đây, thì nên ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà thuyết.
Một hồi sau Huệ Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái nào là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh? Huệ Minh ngay đó đại ngộ.
” (Phẩm Tựa Thứ Nhất)

Đối với Phật Giáo Tây Tạng, cửa vào tịch lặng là Sáu Lời Dạy của Đại sư Tilopa (988–1069) dạy cho Naropa. Còn gọi là sáu chữ của Mahamudra, Đại Thủ Ấn. Bản văn tiếng Sanskrit chỉ có 6 chữ, dịch sang tiếng Anh hay Việt cho rõ nghĩa sẽ là 6 câu ngắn.

Bản tiếng Anh của Ken McLeod là: “Don’t recall. Don’t imagine. Don’t think. Don’t examine. Don’t control. Rest.”

Có thể dịch ra tiếng Việt là: “Đừng gợi nhớ. Đừng tưởng tượng. Đừng suy nghĩ. Đừng khảo sát. Đừng kiểm soát. Hãy an nghỉ tự nhiên.”

Sáu lời dạy trên còn được dịch giả trên giải thích rõ hơn, có thể dịch ra tiếng Việt như sau: “Hãy buông bỏ những gì đã qua. Hãy buông bỏ những gì có thể sẽ tới. Hãy buông bỏ những gì đang xảy ra bây giờ. Đừng luận giải bất cứ gì. Đừng tìm cách làm bất cứ gì để xảy ra. Hãy buông thư, bây giờ, và an nghỉ.”

Và như thế, chúng ta sẽ thấy đúng là Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, tức là các bản kinh chư tăng tụng hàng ngày trong các năm đầu Đức Phật hoằng pháp. Ngay khi nào bạn thực hiện 6 chữ như thế, cái tịch lặng vô ngôn sẽ hiện ra. Hãy giữ tâm như thế trọn ngày, sáng trưa chiều tối, không cần ngồi theo thời khóa nào.

Đúng vậy, cái tịch lặng thực sự không ở đâu xa. Trong Tăng Nhất A Hàm, Kinh EA 31.6, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng, có lời Đức Phật dạy:

“Xóm vắng là sáu xứ bên trong. Thế nào là sáu? Đó là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Nếu người có trí tuệ, khi quán mắt, thấy thảy đều trống không, không chỗ gì, hư dối, vắng lặng, không bền chắc. Khi quán tai, mũi, miệng, thân, ý, thấy đều trống không, đều rỗng lặng, cũng không bền chắc."

.

Một nhà thơ Nhật Bản khác cũng ưa thích viết về tịch lặng là Jakushitsu Genkō (1290-1367). Jakushitsu là một nhà sư dòng Lâm Tế (Rinzai), cũng nổi tiếng là một nghệ sĩ với tài làm thơ, thổi sáo, và là trụ trì ngôi chùa Eigen-ji, nơi được xây lên để dâng cúng cho sư làm nơi dạy Thiền. Sinh trong một gia đình quý tộc, xuất gia năm 12 tuổi tại tu viện Tofukuji ở Kyoto, nơi nổi tiếng về giáo dục; những năm đầu ở đây, nhà sư trẻ học về Nho GiáoThiên Thai Tông, một hệ thống lý luận của Phật Giáo. Trong một chuyến tới thăm Tanakami, một thị trấn trong tỉnh Go (bây giờ có tên là tỉnh Shiga), Jakushitsu nhìn thấy một nhà sư đang lặng lẽ ngồi thiền. Hình ảnh lặng lẽ ngồi thiền của nhà sư lạ kia có sức lôi cuốn bí mật. Ngồi thiền lặng lẽ không phải là một phần trong pháp tu hàng ngày tại ngôi chùa Jakushitsu đang theo học, nơi chủ yếu đào tạo các giảng sưluận sư Phật Giáo.

Được giới thiệu từ một vị sư đồng học ở Tofukuji, Jakushitsu biết về Thiền sư Yakuo Kenko, người từng theo học với Lan-chi Tao-lung (tiếng Nhật là: Rankei Doryu) một Thiền sư Trung Hoa từ Szechuan tới Nhật Bản năm 1246 để truyền pháp Thiền Tông. Jakushitsu cùng với bạn đồng học lên đường tới Zenkoji, ngôi chùa tại Kamakura, nơi Yakuo lúc đó đang cư ngụ. Truyền thuyêt kể rằng vào đêm trước khi Jakushitsu tới Zenkoji, Thiền sư Yakuo có một giấc mơ, trong đó “nhiều vị thánh đáp xuống và một vùng ánh sáng hiện ra chiếu rọi khắp núi và sông.” Do vậy, Yahuo mới đặt tên cho Jakushitsu là Genko, tức là “Ánh sáng nguyên khởi.”

Jakushitsu thân cận với Thầy Yakuo cho tới khi Yakuo từ trần năm 1320. Jakushitsu sang Trung Quốc để tìm học Thiền trong thời gian từ 1320 tới 1326, với vị Thầy có hạnh ẩn tu nổi tiếng là Ming-pen. Khi về lại Nhật Bản, Jakushitsu vào núi, sống nhiều năm trong hạnh ẩn tu. Phong thái kỳ dị, và những bài thơ đầy sức mạnh của Thiền đã làm cho nhà sư Jakushitsu nổi tiếng. Một vị lãnh chúa địa phương mời sư ra dạy Thiền cho công chúng, xây ngôi chùa có tên là Eigen-ji và Jakushitsu là vị trụ trì đầu tiên nơi đây.

Mấy dòng thơ sau đây là Jakushitsu tự viết về bản thân:

Cô tịch
vui hỷ lạc
tóc trắng nhìn núi xanh.

Một bài thơ khác, cũng do Jakushitsu tự viết về hạnh sống trong các rặng núi. Dịch như sau.

Không tìm danh vọng
không màng khó nghèo
sống ẩn sâu trong núi
xa lìa bụi thế gian
năm hết rồi, bầu trời lạnh
ai sẽ làm bạn với ta?
Hoa đào nở trên cành mới
tắm trong ánh trăng.

.

Trong khi đó, có những bài thơ rất cổ, có từ 2500 năm về trước, ngợi ca hạnh tịch lặng, một trong các phẩm chất của người ngộ đạo. Bài thơ của Trưởng lão ni Sona có ký số Thig 5.8, trích dịch như sau:

Tôi thiền tư về vô tướng
với nhất tâm và tịch lặng
tức khắc giải thoát thành tựu
Niết bàn, không gì nắm giữ
.
Hiểu trọn năm uẩn thấu suốt
tuy còn đây, rễ đã cắt
Bà già bất hạnh, thân tôi
chuyện tái sanh đã hết rồi
.

.

Tuy nhiên. Tịch lặng không chỉ là ngồi thiền. Một bài thơ của Trưởng lão tăng Bhagu trong bài kệ có ký số Thag 4.2, ghi rằng đại sư Bhagu ngồi thiền, gặp cơn buồn ngủ, mới bước ra khỏi lều, đi kinh hành, khi bước đi, bị vấp té, rồi đứng dậy phủi bụi, rồi đi tiếp, niềm tịch lặng khởi lên trong khi đại sư bước tới bước lui, và rồi tâm đạt giải thoát, chứng tam minh. Bài thơ kể về niềm tịch lặng đạt được trong khi bước đi, trích như sau.

Buồn ngủ, tôi rời tịnh xá
bước thiền hành, chân vấp ngã
Phủi bụi xong, bước đi tiếp
lối thiền hành, tới rồi lui
tịch lặng sâu thẳm trong tôi.
Hốt nhiên chứng ngộ ngập tràn
thấy rõ ba cõi hiểm nguy
vững vàng với tâm viễn ly
Hiển lộ trong tâm giải thoát
thấy rõ tối thượng giáo pháp
Tam minh bây giờ hoàn tất
trọn vẹn như lời Đức Phật.

Tịch lặng, đẹp là như thế, hiện ra ngay ở nơi bạn đi đứng nằm ngồi, ngay ở nơi bạn chọn chữ làm thơ, ngay ở nơi sâu thẳm trong tâm và ngập tràn khắp thế giới này. Tịch lặng là Niết Bàn. Hãy lắng nghe tịch lặng, hãy tắm gội trong tịch lặng, hãy thấy tịch lặng đang ngấm vào núi đá, vào cây rừng, vào khắp không gian và khắp mắt tai mũi lưỡi thân ý của mình.  Nó đó. Vô tướng, không hình dạng, không màu sắc. Tịch lặng không phải là cái được tạo ra, nhưng là cái có sẵn chưa hề rời chúng ta, ngay ở đây và bây giờ.

 

coi nguoncoi nguon 3coi nguon 1co nguon 2

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9549)
Kỷ niệm một Chuyến Hoằng Pháp Âu Châu thật tuyệt vời và đáng nhớ... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 11449)
Xin cảm ơn Đạo, cảm ơn Đời đã tặng cho tôi cái may mắn nầy, mà nhiều người trong chúng ta chắc rằng cũng có được nhiều cơ hội như vậy... HT Thích Như Điển
(Xem: 11111)
Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở thành ý niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là vậy... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 12720)
Khóa Tu Học Phật Pháp kỳ 3 tại Hòa Lan từ 28 tháng 3 đến mùng 1 tháng 4 năm 2013... Thiện Giới
(Xem: 13975)
Phật pháp vốn không có biên giới; cho nên tôi đã đến với giáo lý Phật Đà cũng như vậy... HT Thích Như Điển
(Xem: 11904)
Hành giả quan sát những tư tưởng của mình được đan kết lại cùng nhau như thế nào và dính mắc vào y ra sao... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 15614)
Một nỗi buồn nhớ vu vơ xâm chiếm tâm hồn, tôi nhận ra vô thường trong từng sát na... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 11636)
Người Cha đầu tiên của Việt Nam là vua Lạc Long Quân, thuộc giống Rồng mang họ Hồng Bàng, sắc dân Lạc Việt, gặp Mẹ Việt Nam là bà Âu Cơ, thuộc giống Tiên.
(Xem: 13515)
Hứa hẹn sẽ vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn và phát triển các khóa tu học Phật pháp mỗi năm một lần vào mùa nghỉ lễ Phục Sinh... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 7864)
Ai đã từng trải qua nhiều khắc khoải, khổ đau trong cuộc sống mà vẫn có lòng tốt và sự nhiệt tình, là nấc thang thăng tiến của các bậc hiền Thánh trong dòng đời nghiệt ngã...
(Xem: 12685)
Ở xứ Đức nầy mỗi năm thời tiết được chia ra làm 4 mùa rõ rệt. Mùa Đông khởi đi từ hạ tuần tháng 12 và chấm dứt vào hạ tuần tháng 3... HT Thích Như Điển
(Xem: 12807)
Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị... Tâm Nhiên
(Xem: 14652)
Hướng về rặng núi xa, đồi cây xanh, Thầy quảy trên vai hai túi đồ, có lẽ một túi đựng đồ dùng cá nhân và túi kia là y hậu, đôi cuốn sách đọc... Nguyên Siêu
(Xem: 15518)
Lời Thầy nói giống như hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát hóa thân vào đời ác năm trược, nơi nào có khổ đau, nơi đó có Bồ Tát... Nguyên Siêu
(Xem: 12135)
Cô không có ấn tượng gì về mẹ ruột của mình, lúc mẹ cô bỏ nhà ra đi cô còn quá nhỏ, hai tuổi là cái tuổi không có ký ức đối với một đứa bé...
(Xem: 13810)
Năm tôi lên 10 tuổi, bố mua về cho một con búp bê. Đó là món quà đầu tiên trong đời tôi nhận được khi kết thúc lớp 4 với kết quả học sinh giỏi.
(Xem: 14012)
Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn...
(Xem: 11563)
Thủa nhỏ, tôi được dạy rằng, phải sống trung thực không dối trá với bản thân mình và với mọi người vì đó là con đường sáng duy nhất của kiếp người.
(Xem: 15356)
Không biết khởi sự tự bao giờ và do đâu, ngay từ thuở còn thanh xuân mới vào đời thì thi nhân đã rơi xuống nguồn mạch sầu bi thiết...
(Xem: 12989)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11672)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16910)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 20114)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 16016)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13228)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 13153)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13185)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15656)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12381)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 13201)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15793)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13888)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 15130)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13832)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13885)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 13074)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13762)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13642)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15333)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14744)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13898)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14193)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13445)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13392)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14630)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13856)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 15015)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17711)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14474)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16877)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant