Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật TánhTâm Từ

29 Tháng Mười Hai 202018:59(Xem: 3634)
Phật Tánh Là Tâm Từ

Phật TánhTâm Từ

Nguyễn Thế Đăng

Chết Và Tái Sinh



Thành Phật
thành tựu đức đại từ đại bi do đã khai mở hoàn toàn Phật tánh:

“Vì xưa kia, trong tám mươi ức kiếp, ta giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi, khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật. Thưở ấy ta cũng quyết định rằng mình có Phật tánh, nhờ đó nên nay ta được thành Phật, có đức đại từ đại bi” (phẩm Như Lai Tánh, phẩm Tà Chánh, Kinh Đại Bát Niết Bàn).

“Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại từ đại bi, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại từ đại bi gọi là Phật tánh, Phật tánh gọi là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Bồ tát thì tu cả Bốn tâm vô lượng:

“Thiện nam tử! Đại Bồ tát trụ ở Sơ địa gọi là đại từ. Vì sao thế? Kẻ xấu ác cùng cực gọi là nhất xiển đề. Bồ tát trụ ở Sơ địa lúc tu Đại từ thì với nhất xiển đề tâm khôngsai biệt, chẳng thấy lỗi của họ, nên chẳng sanh sân. Vì nghĩa ấy nên được gọi là đại từ. Thiện nam tử! Vì trừ những điều không lợi ích cho chúng sanh, đây gọi là đại từ.

Muốn cho chúng sanh vô lượng lợi lạc, đây gọi là đại bi.

Với các chúng sanh tâm sanh hoan hỷ, đây là đại hỷ.

Không ôm giữ cái gì, đây gọi là đại xả. Nếu chẳng thấy cái tôi, tướng các pháp, thân mình, thấy tất cả pháp bình đẳng không có hai, đấy gọi là đại xả. Tự bỏ cái vui của mình mà đem cho người khác, đây gọi là đại xả.

Thiện nam tử! Chỉ bốn tâm vô lượng có thể làm cho Bồ tát tăng trưởng đầy đủ Sáu ba la mật, còn các hạnh khác không thể làm được.

Thiện nam tử! Đại Bồ tát trước được bốn tâm vô lượng thế gian, rồi sau mới phát tâm Bồ đề vô thượng, sau đó mới được tâm vô lượng xuất thế gian. Thiện nam tử! Nhân tâm vô lượng thế gian mà được tâm vô lượng xuất thế gian, do vì nghĩa ấy nên gọi là đại vô lượng”. (phẩm Phạm Hạnh).

Bồ tátSơ Hoan Hỷ địa lần đầu tiên tương ưngthể nhập Pháp thân Phật tánh và Bốn tâm vô lượng Từ Bi Hỷ Xả cũng hòa nhập với Pháp thân Phật tánh để thành “tâm vô lượng xuất thế gian”. Từ đây, càng mở rộng bốn tâm vô lượng thì càng “dứt trừ được các phiền não” (phẩm Phạm Hạnh), và càng dứt trừ vô minh phiền não thì Pháp thân Phật tánh càng hiển lộ. Bốn tâm vô lượng khiến Bồ tát thể nhập sâu hơn vào Pháp thân Phật tánh vì chúng làm “tăng trưởng đầy đủ Sáu ba la mật, còn các hạnh khác không thể làm được”.

Đặc biệt phẩm Phạm Hạnh dành để nói nhiều về tâm Từ, và cách tu tập về tâm từ.

“Thiện nam tử! Thiện căn của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, chư Phật đều lấy tâm từ làm căn bản.

Thiện nam tử! Đại Bồ tát tu tập tâm từ có thể sanh vô lượng thiện căn như vậy. Đó là: quán bất tịnh, quán hơi thở ra vào, vô thường, bốn niệm xứ, bảy phương tiện, ba quán xứ, mười hai nhân duyên, vô ngã. Pháp noãn, pháp đảnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất, Kiến đạo, Tu đạo, Bốn chánh cần, Bốn như ý, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần, Bốn thiền, Bốn vô lượng tâm, Tám giải thoát, Tám thắng xứ, Mười nhất thiết nhập, Ba tam muội Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô tranh tam muội, Tha tâm trí, các thần thông, trí biết bản tế, trí Thanh Văn, trí Duyên Giác, trí Phật.

Thiện nam tử! Những pháp như vậy đều lấy tâm từ làm căn bản. Vì nghĩa ấy nên từ là chân thật chẳng phải là hư vọng.

Nếu có người hỏi cái gì là căn bản của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ.

Thiện nam tử! Người có thể thực hành pháp lành gọi là thật tư duy, người thật tư duy gọi là có tâm từ. Tâm từ chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ tức là Đại thừa, Đại thừa tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ tức là đạo Bồ đề, đạo Bồ đề tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ có thể vì tất cả chúng sanh mà làm cha mẹ, cha mẹtâm từ, tâm từ chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từcảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật chính là tâm từ. Nên biết tâm từ chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh. Phật tánh này từ lâu bị phiền não che đậy khiến chúng sanh không thể nhìn thấy. Phật tánh tức là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai” (phẩm Phạm Hạnh).

Như vậy, tu hành tâm từtu hành Phật tánh, và tu hành Phật tánhtu hành tâm từ. Cụ thể tâm từ dứt trừ vô minh phiền não để hiển lộ Phật tánh, và Phật tánh tức là tâm từ.

Chúng ta trích một ít đoạn về thực hành tâm từ khi bố thí:

“Thiện nam tử! Lúc làm việc bố thí, Bồ tát đối với chúng sanh, lòng từ bình đẳng, tưởng như con mình. Lại lúc làm bố thí, đối với chúng sanh Bồ tát khởi lòng bi mẫn như cha mẹ chăm sóc đứa con đang đau ốm. Lúc làm bố thí, lòng Bồ tát vui mừng như thấy con được khỏi bệnh. Sau khi bố thí, lòng Bồ tát buông xả như cha mẹ thấy con đã lớn có thể tự sanh sống.

Đại Bồ tát này ở trong tâm từ, lúc bố thí thức ăn thường nguyện như vầy: Nay những thức ăn của tôi đều cho tất cả chúng sanh cùng hưởng. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sanh được thức ăn đại trí huệ, chuyên cần tinh tấn hướng đến Đại thừa vô thượng. Nguyện các chúng sanh được món ăn hoan hỷ của pháp, chẳng cầu món ăn ái nhiễm. Nguyện các chúng sanh đều được món ăn Bát nhã ba la mật, đều được nắm giữ đầy đủ các thiện căn vô ngại tăng trưởng. Nguyện các chúng sanh ngộ hiểu Không tướng, đắc thân vô ngại giống như hư không. Nguyện các chúng sanh thường làm người lãnh thọ, thương xót tất cả mà làm ruộng phước cho mọi loài”.

Trong khi bố thí thức ăn, nghĩ đến tất cả chúng sanh, đó là tâm từ bi. Từ bi ấy không rời trí huệ Bát nhã soi thấy Không tướng. Chỉ trong một việc bố thí, Bồ tát có đủ từ bitrí huệ. Và làm như vậy, nghĩa là “ở trong tâm từ” mà làm, thì Bồ tát dần đi sâu vào từ bitrí huệ, tức là nền tảng Phật tánh.

“Thiện nam tử! Đại Bồ tát ở trong tâm từ, lúc bố thí thức uống nên nguyện như vầy: Nay những thức uống tôi bố thí đều cho tất cả chúng sanh cùng hưởng. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sanh đến sông Đại thừa, uống nước Tám vị mau vượt trên con đường vô thượng Bồ đề, lìa khỏi sự khô khát của Thanh Văn, Duyên Giáckhát ngưỡng cầu Phật thừa vô thượng, dứt khát phiền nãokhát ngưỡng pháp vị. Lìa niệm ưa sanh tửưa thích Đại Niết bàn Đại thừa, đầy đủ pháp thân, đắc các tam muội, nhập vào biển lớn trí huệ sâu xa. Nguyện các chúng sanh được vị cam lồ, vị Bồ đề xuất thế, tịch tĩnh lìa dục. Nguyện các chúng sanh đầy đủ vô lượng trăm ngàn pháp vị. Đủ pháp vị rồi được thấy Phật tánh. Thấy Phật tánh rồi có thể rưới mưa pháp. Rưới mưa pháp rồi, Phật tánh trùm khắp như hư không.

Lại khiến cho vô lượng chúng sanh khác được một pháp vị là vị Đại thừa, chẳng phải vị của các Thanh Văn, Bích Chi Phật. Nguyện các chúng sanh chỉ cầu pháp vị, là vị vô ngại của Phật pháp hành hoạt, chẳng cầu những vị khác. 

Thiện nam tử! Đại Bồ tát lúc bố thí thức uống phải nên phát những nguyện kiên cố như vậy”.

Bồ tát luôn luôn ở trong tâm từ, tức là ở trong Phật tánh mà làm các ba la mật như bố thí, trì giới, kham nhẫn… cho đến những việc hàng ngày như đi đứng, ngủ nghỉ, ăn uống, nghĩ suy… Tất cả mọi hoạt động thân, khẩu, ý của Bồ tát đều phát xuất từ nền tảng tâm từ hay Phật tánh, tiến hành trong tâm từ hay Phật tánh, và kết thúc bằng cách hòa tan vào nền tảng tâm từ hay Phật tánh. Tin, hạnh, nguyện của Bồ tát đều từ tâm từ hay Phật tánhtrở lại hòa tan vào cội nguồn tâm từ Phật tánh.

Như thế mọi hành động của Bồ tát, bên ngoài là giúp đỡ cho chúng sanh, bên trong là mở rộng thêm cái thấy Phật tánh vốn có ở nơi mình.

Tâm từ kết hợp với Trí huệ ba la mật, Trí hệ soi thấu tánh Không, được gọi là tâm từ vô duyên hay tâm từ đệ nhất nghĩa.

“Lại nữa, thiện nam tử! Thế nào là đại Bồ tát tu hành Đại Niết bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ ba?

Thiện nam tử! Đại Bồ tát tu Đại Niết bàn buông xả tâm từ mà đạt tâm từ. Khi ấy đạt tâm từ không do nhân duyên.

Thế nào là buông xả tâm từđạt được tâm từ? Thiện nam tử! Từ gọi là thế đế. Đại Bồ tát buông xả tâm từ thế thế, được tâm từ Đệ nhất nghĩa. Tâm từ đệ nhất nghĩa chẳng phải do nhân duyên.

Lại nữa, thế nào là buông xả tâm từđạt được tâm từ? Tâm từ nếu có thể buông xả thì gọi là tâm từ phàm phu. Còn tâm từ đạt được ấy thì gọi là tâm từ vô duyên của Bồ tát, đạt được tâm từ lân mẫn, đạt được tâm từ Như Lai, tâm từ Thế Tôn, tâm từ không có nhân duyên.

Đạt được tâm từ vô duyên của Bồ tát thì chẳng thấy tâm từ của mình, chẳng thấy tâm từ của người, chẳng thấy người giữ giới, chẳng thấy người phá giới. Dầu tự thấy lòng bi nhưng chẳng thấy chúng sanh. Dầu có thọ khổ nhưng chẳng thấy người thọ. Vì sao thế? Vì tu hành Không chân thật đệ nhất nghĩa. Đó gọi là Bồ tát tu Đại Niết bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ ba” (phẩm Quang Minh Biến Chiếu).

Tâm từ do nhân duyên, do hình tướngtâm từ thế gian. Tâm từ không có nhân duyên không có hình tướng, nghĩa là hợp nhất với tánh Khôngtâm từ xuất thế gian, tâm từ vô duyên, tâm từ đệ nhất nghĩa của chư Bồ tát và chư Phật. Tâm từ này là Phật tánh tánh Không, không có chủ thể và đối tượng, không khởi từ đâu không chấm dứt ở đâu, không thể xả vì không thể lấy, không có trung tâm và biên bờ, không có chúng sanh, người giữ giới hay người phá giới. Không ngã, nhân, chúng sanh, thọ giảtâm từ vô duyên, cũng chính là tánh Không, cũng chính là Phật tánh Đại Niết bàn.

Cho nên tu tâm từ người ta có thể xóa bỏ chấp ngã, chấp pháp, cái tôi và cái của tôi, tướng mình, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thế giới… để xóa bỏ tất cả sanh tử do phân biệt hư vọng và đạt vào Phật tánh vốn sẵn, thường trực hiện tiền.

 

Tâm đại từ, đại bi là hai đức của và trong Phật tánh. Thế nên tu từ bi khiến cho Bồ tát đạt đến Phật tánh, đạt đến nhất tử địa hay cực ái nhất tử địa, tức là địa thương yêu tất cả chúng sanh như con một.

“Thiện nam tử! Đại từ, đại bi gọi là Phật tánh. Vì sao thế? Vì đại từ đại bi thường theo Bồ tát như bóng theo hình. Tất cả chúng sanh nhất định sẽ đạt được đại từ đại bi, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại từ đại bi gọi là Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai.

Địa Nhất tử (con một) gọi là Phật tánh. Vì sao thế? Vì nhờ nhân duyên là địa này, Bồ tát đạt được tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh. Vì tất cả chúng sanh nhất định đạt đến địa Nhất tử, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Địa Nhất tử tức là Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai” (phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống).

Đức từ của Bồ tát không thể nghĩ bàn, vì vượt lên tất cả cho đến địa vị Phật:

“Thiện nam tử! Nếu từ là có, là không, là chẳng phải có chẳng phải không thì tâm từ như vậy là chỗ các Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Nếu từ không thể nghĩ bàn, Pháp không thể nghĩ bàn, Phật tánh không thể nghĩ bàn, Như Lai cũng không thể nghĩ bàn”. (phẩm Thánh Hạnh).

Thế nên, niệm tâm từ là cảnh giới Phật:

“Chư Phật Thế Tôn không có ái niệm như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La Hầu La. Từ niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh giới trí huệ của chư Phật” (phẩm Thuần Đà).

 

Sau đó Đức Phật kể vài câu chuyện về sức mạnh hay năng lực của tâm từ, được gọi là những thần thông.

“Thiện nam tử! Ví như có người trông thấy từ xa sư tử, cọp, beo, chó sói, quỹ la sát… tự nhiên sanh sợ hãi, hoặc đi đêm trông thấy gốc cây cũng sanh sợ hãi.

Những người ấy tự nhiên sanh sợ hãi. Cũng thế những chúng sanh như vậy khi gặp người tu tâm từ tự nhiên được vui thích. Vì nghĩa ấy nên chỗ tu tâm từ của Bồ táttư duy chân thật, chẳng phải không có lợi ích.

Thiện nam tử! Ta nói tâm từ này có vô lượng môn, đó là những thần thông.

Thiện nam tử! Như Đề Bà Đạt Đa xúi giục vua A Xà Thế muốn làm hại Như Lai. Lúc ấy ta vào thành lớn Vương Xá lần lượt khất thực. Vua A Xà Thế liền thả voi say Hộ Tài để hại ta và các đệ tử. Voi say ấy đạp chết nhiều người. Voi ấy ngửi thấy mùi máu lại càng thêm cuồng say chạy thẳng đến. Các đệ tử chưa lìa dục đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ trừ A Nan. Lúc đó nhân dân trong thành Vương Xá đồng thời kêu khóc, “Ôi, hôm nay đức Như Lai chết mất! Vì sao bậc Chánh Giác lại nhanh chóng tan hoại?” Lúc ấy Đề Bà tâm sanh vui mừng, “Sa môn Cồ Đàm chết đi là rất tốt, kế của ta rất hay, ta sẽ được toại nguyện”.

Thiện nam tử! Lúc bấy giờ ta vì muốn hàng phục voi say Hộ Tài bèn nhập Từ tam muội, xòe tay chỉ voi. Tức thời nơi năm ngón tay hiện ra năm sư tử. Voi ấy thấy vậy hoảng sợ, đại tiểu tiện tại chỗ, nằm phục xuống kính lễ chân ta.

Thiện nam tử! Khi ấy năm đầu ngón tay của ta thật khôngsư tử, đó là do sức thiện căn tu tâm từ khiến voi say được điều phục”.

Tâm từsức mạnh, năng lực điều phục được voi say hung dữ, khiến Đức Phật vượt qua được những trở ngại, những chống đối, làm hại.

“Lại nữa, thiện nam tử! Khi ta muốn nhập Niết bàn, bèn đi đến thành Câu Thi Na. Giữa đường có năm trăm lực sĩ đang sửa sang dọn đường sá. Có một tảng đá lớn giữa đường, họ muốn khiêng vất đi nhưng hết sức mà chẳng làm nổi. Bấy giờ ta thương xót bèn khởi tâm từ. Các lực sĩ liền thấy ta lấy ngón chân cái hất tảng đá lên hư không rồi lấy tay hứng, đặt trong bàn tay phải. Ta thổi cho thành bụi, rồi hợp lại thành tảng đá khiến các lực sĩ hết kiêu mạn. Ta bèn giảng cho họ, nói các pháp yếu khiến họ đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Thiện nam tử! Lúc ấy Như Lai thật chẳng dùng ngón chân hất hòn đá lên, thổi tan thành bụi, rồi hợp lại như cũ. Thiện nam tử! Nên biết rằng đó chính là sức thiện căn của tâm từ làm cho các lực sĩ thấy như vậy”.

Nếu tâm từnăng lực như thế thì phải chăng nước chảy, mây trôi, cây mọc… đều là năng lực của tâm từ?

Năng lực của tâm từ biến những nghịch cảnh, những chống đối làm hại thành thuận cảnh, thành những biểu hiện của Pháp:

“Thiện nam tử! Xứ Nam Thiên Trúc này có một thành lớn tên là Thủ Ba La. Trong thành đó có một trưởng giả tên Lưu Chí, dẫn dắt sự tu hành của đại chúng. Ông này đã trồng những thiện cănvô lượng Phật quá khứ. Nhân dân trong thành tin theo tà đạo, phụng sự phái Ni Kiền. Ta muốn độ trưởng giả Lưu Chí, nên từ thành Vương Xá đến Thủ Ba La. Phái Ni Kiền nghe ta sắp đến thành thì bàn với nhau: Sa môn Cù Đàm nếu đến thành này, nhân dân chắc sẽ bỏ chúng ta không còn cung cấp, chúng ta lấy gì sanh sống.

Bàn xong, chúng Ni Kiền phân ra, loan báo với người trong thành: Sa môn Cù Đàm sắp đến, nhưng Sa môn ấy lìa bỏ cha mẹ lang thang các nơi, ông đến đâu thì làm cho xứ ấy mất mùa đói khát, nhân dân bị bệnh dịch không thể cứu chữa. Cù Đàm là hạng không nhà, dắt theo toàn những quỷ thần La Sát hung ác, những kẻ không gia đình mới làm đệ tử. Giáo thuyết của ông toàn là hư không. Ông ta đến chỗ nào thì xứ đó không được an vui.
Nhân dân trong thành nghe những lời ấy sợ hãi quá lễ lạy dưới chân các Ni Kiền, thưa rằng: Đại sư! Nay chúng tôi phải tính toán thế nào?
Các Ni Kiền đáp: Sa môn Cù Đàm có tính ưa cây rừng, suối chảy, nước trong. Các người nên ra ngoài thành, chỗ nào có rừng suối thì đốn hết cây cối, đem phân dơ đổ vào giếng, ao, khe, suối. Hãy đóng chặt cửa thành, võ trang canh phòng. Ông ấy đến thì đừng cho vào, đừng cho ai gặp, các ngươi sẽ được an ổn. Chúng ta cũng làm các pháp thuật để cho ông Cù Đàm phải rút lui.
Nhân dân trong thành liền làm theo, đốn hết cây cối, làm dơ đục các dòng suối, võ trang phòng vệ.
Thiện nam tử! Khi ta đến ngoài thành, chẳng thấy rừng cây, chỉ thấy trên mặt thành võ trang phòng bị chặt chẽ, ta liền thương xót hướng tâm từ đến đó. Những cây cối mọc lên như cũ mà có phần tươi tốt hơn. Nước trong sông, ao, giếng, suối trở nên trong sạch, tràn đầy như lưu ly, lại sanh ra nhiều thứ hoa đẹp thơm lan tràn mặt đất. Vách thành biến thành lưu ly trong suốt xanh biếc. Nhân dân trong thành đều được thấy ta và đại chúng. Cửa thành tự mở rộng, không ai ngăn lại được. Các thứ binh khí đều hóa thành những loại hoa đẹp.

Lúc ấy trưởng giả Lưu Chí dẫn đầu, nhân dân trong thành tập hợp đến chỗ ta. Ta liền vì mọi người nói các pháp yếu khiến hết thảy đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Thiện nam tử! Khi ấy ta thật chẳng hóa ra rừng cây, cũng chẳng làm cho nước trong sạch đầy tràn, cũng chẳng biến thành đó thành lưu ly trong suốt xanh biếc để cho nhân dân kia thấy rõ được ta và đại chúng, cũng chẳng mở cửa thành, biến vũ khí làm cành hoa.

Thiện nam tử! Nên biết những sự việc ấy đều do sức căn lành của tâm từ, khiến cho nhân dân thành Thủ Ba La thấy những sự việc như vậy”.

Kinh còn nói tiếp những sự kiện khác về năng lực của tâm từ. Nhưng chỉ qua ba việc này, chúng ta cũng thấy “công đức của tâm từ không thể nghĩ bàn”.

Đó là năng lực chuyển hóa của tâm từ. Nó có thể biến hoàn cảnh thù địch thành hoàn cảnh thân thiện, biến cái xấu ác thành cái thiện lành, và biến cảnh vật xấu dơ thành đẹp đẽ, trong sạch, thành thường lạc ngã tịnh.

Có phải cái đẹp của thế gian là do tâm từ mà có? Chính tâm từ tạo thành cái đẹp của thiên nhiên, con ngườithế giới.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16687)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24160)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20590)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18835)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21330)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18287)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19852)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14851)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12979)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13966)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13154)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14016)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17639)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15409)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14704)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14460)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17870)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21911)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19461)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20607)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25143)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16881)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14723)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18996)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22013)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20639)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25292)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15774)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15778)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20732)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17018)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18641)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20029)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39320)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31520)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30664)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36030)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23879)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26554)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant