Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Trâu Trong Phật Pháp

09 Tháng Hai 202119:54(Xem: 3866)
Con Trâu Trong Phật Pháp

CON TRÂU TRONG PHẬT PHÁP

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

trau 1

 

     Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa.

 

     Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.

    

     Trong gần nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, đức Phật đã giảng dạy và hóa độ cho rất nhiều người thuộc nhiều thành phần, căn cơ và nguồn gốc khác biệt nhau. Tùy cơ duyên mà Ngài sử dụng những phương cách giảng khác nhau để khai mở trí tuệ cho hàng đệ tử. Có khi Ngài dùng lời dịu dàng để khuyên răn. Có khi Ngài dùng các lý luận sắc bén để thuyết phục. Có khi Ngài dùng những ví dụ, những ngụ ngôn, những điển cố. Có khi Ngài dùng những định nghĩa. Cũng có khi Ngài dùng các ẩn dụ mạnh mẽ. Trí tuệ của đức Phật đã tỏ rạng trong cách trình bày chân lý cao thâm với những từ ngữ bình dị, thông thường, dễ hiểu, không rườm rà phiền phức. Có rất nhiều phẩm, chương, đoạn trong các Kinh được đức Phật dùng hình ảnh con trâu để diễn đạt giá trị thông điệp giải thoát tâm linh đối với người học đạo.

    

     Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Con trâu ấy lúc nào cũng cận kề với chúng ta như hình với bóng vậy mà rất nhiều người không tỏ ý quan tâm đến sự hiện diện của nó, không chiêm nghiệm để khám phá nó. Bản tính của trâu là thuần hậu, siêng năng, nhẫn nại và cũng dễ điều phục, nhưng thỉnh thoảng vẫn ngu si làm bậy, hung hăng tàn bạo như loài thú hoang. Đó cũng là đặc tính của chúng sinh. Kinh điển lấy hình ảnh trâu để nhấn mạnh đến sự vô trí có trong con người chúng sinh với một cái tâm đầy vọng tưởng, điên đảo, tham, sân, si, buông lung, thiếu tự chủ, chất chứa phiền não, mê lầmdục vọng. Tâm vô minh của chúng sinh với sự si mê của con trâu vốn khởi đi từ một gốc gác vô minh như nhau. Cả hai đều không giác ngộ được chân tâm của mình mà chỉ sống theo “vọng tâmđiên đảo từ muôn kiếp. Nhưng cả hai đều vốn sẵn có tính Phật nên đều có thể thành tựu giác ngộgiải thoát. Cả hai đều là Phật sẽ thành. 

 

     Quá trình thuần hóa trâu để cho nó trở thành hiền hòa và chịu phục tùng theo con người là một quá trình mang tính biểu tượng về mặt giáo hóachuyển hóa tâm linh trong thế giới nhà Phật. Trâu ví như vọng tâm điên đảo. Người tu tập chuyển hóa tâm giống như trẻ mục đồng chăn trâu, điều ngự vọng tâm sinh diệt để thuần phục nó. Bởi lẽ đó, quá trình tu chứng chính là quá trình chuyển hóa tâm, từ vọng sang chân, từ sinh diệt sang vô sinh diệt, từ mê sang ngộ, từ chúng sinh sang quả vị Phật. Nhưng quá trình chuyển hóa tâm đó, tùy theo căn cơ của người tu mà có đốn có tiệm, có cao có thấp và có sâu có cạn. 

 

     Công việc quán sát từng động niệm của tâm để luyện tâm, để tu tâm tương tự như việc chăn trâu. Đức Phật cũng như chư Tổ đã để lại nhiều lời dạy quý giá để chăn giữ “con trâu tâm ý” này. 

  

     Trong KINH PHÓNG NGƯU (Tăng Nhất A Hàm) ghi lại chuyện quốc vương xứ Ma Kiệt Đà thỉnh Phật và năm trăm đệ tử Phật để cúng dường trong ba tháng. Quốc vương muốn dọn sữa tươi cúng Phật và chúng Tỳ kheo nên phải cho gọi những người chăn trâu ngày ngày mang sữa tươi đến. Sau ba tháng, quốc vương thương cảm những người này nên cho họ cơ duyên đến hầu Phật. Họ đến hầu Phật, sung sướng được chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, nhưng không biết gì để thưa hỏi vì họ chỉ biết việc chăn trâu mà thôi. Họ đem việc đó hỏi Phật, muốn biết phải chăn trâu thế nào cho có hiệu quả thiết thực. Phật dạy nếu biết giữ “mười một điều” thì người chăn có thể làm cho bầy trâu mạnh khoẻ và sinh sôi nhiều thêm.

 

     Nhân đó, Phật cũng quay qua dạy các thầy Tỳ kheo là phải biết “mười một pháp”, để cho thiện pháp được tăng trưởng. Đây là mười một nghệ thuật của người chăn trâu, tương xứng với mười một điều tâm niệm của một vị tu sĩ để điều phục tâm. Danh hiệu của đức Phật là “điều ngự sư” nên cũng có thể hiểu là Ngài cũng như một người chăn, một người đánh xe khéo léo đưa chúng sinh ra khỏi bể khổ, đến được bến bờ giải thoátan lạc. Mười một điều đó là:

 

     1. Nếu người chăn trâu giỏi biết nhận ra được trâu của mình, biết trâu sắc đen, sắc trắng hay sắc tạp, thời một tu sĩ giỏi cũng phải làm tương tự như thế. Tu sĩ cũng phải biết rõ “sắc pháp”, phải biết nhận ra được những yếu tố tạo nên sắc thân của mình. Phải quán biết sắc thân mình là do “tứ đại” gồm “đất, nước, gió và lửa” tạo thành. Phải khéo quán sát về tính cách kết hợp của sắc uẩn, của các yếu tố căn bản trong thân, quán sát với trí tuệ để thấy rõ bản chất vô thường, bất tịnh của thân.

 

     2. Nếu người chăn trâu giỏi nhận diện được con trâu của mình trong đàn trâu, biết tướng của trâu, biết trâu có tướng tốt hay không có tướng tốt khi so với các bầy trâu khác thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết phân biệt hình tướng, nhận biết được các chuyển biến của “thân, khẩu, ý”. Phải biết được những hành động nào của thân, khẩu, ý của mình là thiện, nên làm và những hành động nào là bất thiện, không nên làm. Khi phân biệt được hành vi của kẻ ngu và người trí, phân biệt được việc tối với việc sáng, đó là biết rõ “các tướng”.

 

     3. Khi trâu bị các trùng độc hút máu, các vết thương lở ra, nếu người chăn trâu giỏi biết cọ xát tắm rửa cho trâu, biết mổ xẻ để trừ khử trùng độc thời một tu sĩ giỏi khi thấy điều ác cũng phải biết cái đó là ác, tương tự như là loài trùng độc hút “máu thiện căn” làm vết thương của tâm lở thêm ra. Người tu phải biết sám hối, biết buông xả và biết gột rửa tâm niệm của mình cho sạch khỏi những tham dục, si mêsân hận. Biết trừ đi thì mới được an ổn.

 

     4. Người chăn trâu giỏi biết chăm sóc băng bó các vết thương của trâu, biết lấy vải, hoặc lấy lá cây che các vết thương, không để cho ruồi muỗi châm chích. Một tu sĩ giỏi cũng phải biết che vết thương lục tình, không để cho các trùng độc phiền não tham dục, sân nhuế, ngu si châm chích gây ra vết thương. Biết hộ trì “sáu căn” của mình là mắt, tai, mũi, luỡi, thân và ý khi tiếp xúc với “sáu trần”, để sáu trần không thể lung lạc mà gây tác hại được.

 

     5. Nếu người chăn trâu giỏi biết cách đốt vỏ cây xông khói lên để trâu khỏi bị muỗi đốt thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết xông hương giải thoát lên, biết đem đạo lý mà mình đã học hỏi được mà dạy lại cho người chung quanh mình để họ tránh cho tâm khỏi động loạn, tránh được những khổ đau phiền muộn dằn vặt trong thân tâm họ, hướng dẫn cho tinh thần họ quay về niềm an vui.

 

     6. Nếu người chăn trâu giỏi biết tìm đường đi an toàn cho trâu thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết chọn đường đi cho cuộc đời của mình, phải biết thực hành “bát chánh đạo”, biết con đường bát thánh có thể đi đến Niết Bàn. Biết tránh những con đường đưa tới danh lợi, sắc dục, quán rượu, sòng bạc và hý trường.

 

     7. Nếu người chăn trâu giỏi biết thương yêu trâu, biết tìm chỗ ở thích hợp cho trâu thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết quý trọng những niềm an vui do thiền định mang lại. Khi nghe pháp phải sinh tâm hoan hỷ, tin tưởng, thọ trìquyết tâm thực hiện. Khi giảng thuyết Phật pháp thì được pháp hỉ thanh tịnh, các thiện căn tăng thêm lên.

 

     8. Nếu người chăn trâu giỏi biết tìm bến tốt cho trâu qua sông, biết khúc sông nào sâu, khúc sông nào cạn, khúc sông nào dễ lội xuống, dễ đi qua, không có sóng dữ, không có trùng độc, biết đưa những con trâu mạnh qua khúc sông nguy hiểm, lùa những con trâu yếu qua khúc sông cạn, bờ bến tốt, thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết bến bờ tốt để an toàn đưa tâm qua, phải biết nương vào “tứ diệu đế” để đến được bến bờ giải thoát. Phải biết thường tìm đến chỗ của những Tỳ kheo đa văn mà hỏi pháp, hỏi để biết tâm mình sáng hay tối, phiền não nặng hay nhẹ. Có thế mới khiến cho mình được vào bến tốt, an lành mà được độ thoát.

 

     9. Nếu người chăn trâu giỏi biết tìm chỗ có ruộng tốt, có cỏ non và có nước uống để thả cho trâu ăn, biết chỗ ở an ổn không có ác trùng, ác thú, thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết rằng “tứ niệm xứ” là mảnh đất tốt nhất để đi đến giải thoát. Biết thân bất tịnh, biết thọ là khổ, biết tâm vô thường và biết pháp vô ngã.

 

     10. Nếu người chăn trâu giỏi biết bảo trì những vùng thả trâu, không tàn hại phá phách môi trường nuôi trâu, không vắt sữa trâu đến kiệt quệ thời một tu sĩ giỏi cũng phải cẩn thận và dè dặt trong việc tiếp xúc với quần chúngthu nhận của cúng dường, đừng để mất tín tâm của Phật tử. Đối với các vật do thí chủ cúng dường như y phục, thực phẩm, sàng tọa và thuốc men thời tu sĩ phải biết nhận lãnh vừa đủ mà thôi. Nếu làm người mất lòng tin thì cũng như tàn phá khu vực chăn trâu.

 

     11. Nếu người chăn trâu giỏi biết nuôi trâu đầu đàn. Con trâu nào lớn nhất, có thể dẫn dắt được cả đàn trâu nên được giữ gìn không để tiều tụy. Uống thì cho dầu lạc, trang sức thì cho vòng hoa, tiêu biểu thì lấy sừng sắt cọ mài, vuốt ve khen ngợi. Biết dùng những con trâu lớn làm gương cho những con trâu con. Tỳ kheo cũng nên theo như thế. Trong chúng tăng có các bậc Tỳ kheo trưởng lão, các bậc đại nhânuy đức hộ trì chánh pháp, hàng phục ngoại đạo, có thể gieo các thiện căn cho tâm, thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết nương vào đức hạnhkinh nghiệm của các bậc thầy đi trước mình, không được tỏ ra chểnh mảng, xem thường, phải biết cung kính, phụng sự cúng dường đúng cách.

 

     Như vậy là tu sĩ nào thực hiện được toàn hảo mười một điều kể trên thì chính bản thân mình hưởng được những lợi ích tốt đẹp và làm cho tăng đoàn càng ngày càng hưng thịnh. Những điều kể trên người tu sĩ có thể bắt chuớc kẻ mục đồng để thực hành nhưng không phải để chăn dắt con trâu nơi ngoài đồng cỏ mà chính là chăn dắt con “trâu tâm” trong lòng mình.

 

     Những người chăn trâu sau khi nghe Phật giảng các cách chăn trâu cặn kẽ như vậy, rất lấy làm kinh ngạcthán phục, không tưởng được một hoàng tử suốt đời chưa từng chăn trâu, mà lại biết rành rẽ về các cách chăn trâu như vậy. Họ nói với nhau rằng, trong nghề của mình, biết nhiều lắm ba hoặc bốn chuyện, dù đến bậc thầy chăn trâu cũng chỉ biết năm hay sáu chuyện là cùng. Phật lại biết cả mười một cách, Ngài quả là bậc “nhất thiết trí”. Theo họ, “nhất thiết trí”, một danh hiệu thường được dùng để tôn xưng đức Phật, có nghĩa là cái gì cũng biết, cả đến việc chăn trâu cũng biết.

 

     Trong KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG, đức Phật cũng đã từng minh họa hình ảnh con trâu đi trong đám bùn sâu để chỉ cho hàng xuất gia cần phải nỗ lực tu hành mới ra khỏi cảnh luân hồi sinh tử, thoát khỏi hệ lụy phiền não: “Sa môn hành đạo như con trâu mang nặng đi trong bùn sâu, mệt nhọc đến mấy cũng không dám ngoái đầu nhìn hai bên, mà phải đi cho mau, rời khỏi bùn sâu mới được nghỉ ngơi. Sa môn luôn coi ái dục còn hơn ùn sâu, nên thẳng tắp một mạchhành đạo, mới thoát khỏi sự khổ lụy”. 

 

     Trong KINH PHÁP HOA có nhiều dụ: từ dụ nhà lửa, dụ chàng cùng tử, dụ cỏ thuốc đến dụ hóa thành, dụ hiện tháp báu v.v... Hình ảnh cái xe do trâu kéo hiện ra trong phẩm “Thí dụ”. Phẩm kể về một trưởng giả tuổi đã già, rất giàu có, sở hữu một tòa nhà lớn nhưng chỉ có một lối ra vào. Con cái ông rất đông đang vui chơi trong đó, nhưng phút chốc bốn phía ngôi nhà cùng một lúc bốc cháy. Các con ông mải vui chơi, không hề hay biết. Ông kêu các con mau chạy thoát ra nhưng các con ưa vui chơi, không sợ sệt, chẳng hiểu gì là lửa, chẳng biết thế nào là nguy hại, cứ mải mê chạy giỡn nhìn cha mà thôi, không chịu nghe lời cha khuyên bảo. Ông phải dùng phương tiện dụ dỗ cho các con các thứ đồ chơi quý báu như ba cỗ xe đó là các xe dê, xe hươu và xe trâu đẹp đẽ và lộng lẫy hầu kích thích lòng ưa thích của các con để dụ cho chúng ham muốn mà chạy ra khỏi nhà lửa.

 

     Nhà lửa chỉ cho ba cõi: dục giới, sắc giớivô sắc giới. Đây là ngôi nhà tâm thức chúng sinh trú ngụ, nó đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa “vô thường”, bởi các ham muốn, nhu cầu của vọng tâm điên đảo. Các người con đang vui chơi trong nhà lửa mà không hay biết căn nhà đang bốc lửa, dụ cho chúng sinh đang bị “sinh, lão, bệnh, tử” đốt cháy. Xe dê tượng trưng cho “thanh văn thừa”. Xe hươu biểu thị cho “duyên giác thừa”. Xe trâu chỉ cho “Đại thừa” hay “Nhất Phật thừa”. 

 

     Việc dùng xe trâu để biểu tượng cỗ xe Đại thừa mang nhiều ý nghĩa thâm diệu. Thứ nhất hình ảnh con trâu gắn liền với đời sống của người dân. Lấy con trâu làm con vật kéo xe Đại thừa nói lên được tính đại chúng, tính bình dân của lý tưởng thành Phật. Thứ hai, con trâu là con vật có nhiều sức mạnh nên cỗ xe trâu Đại thừa vì vậy mới có thể chở được nhiều chúng sinh đi trên đoạn đường dài từ phàm phu đến thành Phật. Thứ ba, con trâu tượng trưng cho tâm vô minh của chúng sinh. Con đường thành Phật khởi đi từ tâm chúng sinh đến tâm Phật, từ giai đoạn một chúng sinh bắt đầu sơ phát bồ đề tâm cho đến khi hoàn thành việc giác ngộgiải thoát. Chính vì vậy, cỗ xe chở chúng sinh đi từ bờ bên này vô minh khổ não đến bờ bên kia giác ngộ an lạc phải là cỗ xe tâm chúng sinh, tức cỗ xe trâu, rồi lần hồi chuyển hóa thành tâm giác ngộ, tức cỗ xe Phật thừa trọn vẹn

 

     Trong những ngày cuối cùng, ngay trong đêm nhập Niết Bàn tại rừng cây Sa La, đức Phật với KINH DI GIÁO (tức Kinh Lời Dạy Cuối Cùng) đã khuyên dạy các đệ tử của Ngài phải nhằm canh giữ cái tâm của mình, cũng như canh giữ một con trâu, hình ảnh biểu tượng con trâu cũng đã được nêu ra như một hình ảnh cụ thể sống động.

 

     Trong KINH DI GIÁO này nơi mục “chế tâmđức Phật dạy rất kỹ rằng: “Các vị đã an trụ trong giới luật, nên phải kiềm chế năm căn, đừng để nó buông thả vào năm dục. Ví như người chăn trâu, cầm roi dòm ngó nó, không để cho nó tha hồ xâm phạm vào lúa mạ người ta. Nếu buông thả năm căn, chẳng phải nó chỉ lan vào năm dục, mà nó, hầu như xông tới không bờ bến nào và không thể chế phục được! Cũng như con ngựa dữ, không thể dùng giây cương mà kiềm chế được và nó sẽ kéo người ta sa xuống hố. Như bị cướp hại, chỉ khổ một đời, nhưng tai họa của giặc năm căn kéo đến nhiều đời, làm hại rất nặng, không thể không cẩn thận! Thế nên, bậc trí giả kiềm chế năm căn mà chẳng dựa theo, gìn giữ nó như giặc, không để cho nó buông lung. Giả như, để cho nó buông lung, chẳng bao lâu, sẽ thấy sự tan diệt vì nó. Đối với năm căn ấy, tâm làm chủ chúng. Do đó, các vị nên khéo chế phục tâm! Tâm rất đáng sợ, sợ hơn rắn độc, ác thú, oán tặc. Và ngay như lửa cháy bừng bừng cũng chưa đủ làm ví dụ về chúng! Ví như có người tay cầm bát mật, di động hấp tấp, chỉ ngó bát mật, không thấy hố sâu. Ví như voi cuồng không có móc câu, con khỉ, con vượn, kiếm được rừng cây, leo, trèo, nhẩy nhót, khó ngăn cấm, chế phục được chúng! Nên gấp bẻ gẫy tâm niệm ấy, đừng để cho chúng buông lung. Buông lung tâm ấy, làm mất những việc tốt của người. Chế phục nó vào một chỗ, không việc gì là không xong. Vì vậy các vị Tỳ kheo nên siêng năng tinh tiến triết phục tâm các vị!”  

 

    THẬP MỤC NGƯU ĐỒ (“Mười tranh chăn trâu”) được gợi ý và bắt nguồn từ đó. Đem hành động cầm roi trông chừng con trâu để nó khỏi ăn lúa mạ của người so sánh để minh họa cho hành động tự chế không để năm căn chạy theo năm dục vọng là một lối thí dụ vừa cụ thể, linh hoạt, vừa tế nhị, sâu sắc. Đối với năm dục trong tâm chúng sinh lúc nào cũng sẵn sàng khởi lên để thao tác, người tu cần thận trọng trong từng giây phút như mục đồng trông coi trâu không để nó ăn lúa mạ của người. Người tu không tự chế trong mỗi ý tưởng, lời nói và hành động thì năm dục sẽ có cơ hội thao tác ngay.

     Chuyện chăn dắt con trâu thì rất nhiều. Tùy từng người chăn mà hình thức chăn dắt lại khác nhau đôi chút, nhưng đích đến của những con trâu ấy thì chỉ có một, đó là đưa trở về lại bản thể vô nhiễm, vô sinh, tức cái gốc ban sơ của nó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13892)
Việc du hành đến Ấn Độ tu tập đã giúp cho Job chuyển sang Phật Giáo. Thầy Kobun Chino, một nhà sư đã chủ trì hôn lễ của ông với bà Laurene Powell...
(Xem: 15772)
Lâu rồi mới thấy tâm hồn mình thanh thản đến thế. Đứng dưới cội cây vàng nhìn lá rơi ngập phố, chợt nghe mơ màng cả một khoảng trời...
(Xem: 14060)
Ngắm chiếc lá thu chín đang lìa cành rơi rụng ta hiểu được sự hoàn tất của một chu trình chuyển hóa để thăng hoa.
(Xem: 16111)
Thuốc giải thù hận ở trong trái tim, cội nguồn của bạo động, là bao dung. Bao dung là một đạo đức quan trọng của bồ tát [những anh hùng và anh thư giác ngộ]...
(Xem: 12353)
Sáng nay, Sư Cô định lên đỉnh núi tìm hái một ít lá cây đem về làm thuốc cho bà con trong làng.
(Xem: 13443)
Là loài hoa sanh trưởng nơi vùng nhiệt đới, nhờ kết hợp nắng mưa vào hạ mà trổ nhụy ra hoa. Do đó sắc hoa sen luôn tươi nhuần, hương hoa thì thanh nhã dịu dàng mà lan tỏa.
(Xem: 11921)
Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện.
(Xem: 11001)
Một vùng đất bán sơn địa khô cằn sỏi đá, mùa nắng thường kéo dài. Cây cối gần như khô kiệt. Nhưng cây bồ đề vẫn xanh mát, gần như tách biệt hẳn với cảnh vật xung quanh.
(Xem: 11231)
Mới đầu hạ mà sen đã nở rộ. Nhìn những cánh sen trắng hồng tươi tắn vươn lên từ trong đầm nước, cũng làm dịu bớt cái nắng nóng mà tôi mang tận từ thành phố về đây.
(Xem: 11436)
Bạn sẽ quên được những nhọc nhằn, cay đắng hoặc bất lực của cuộc đời khi bạn hiểu được rằng đời này vốn ảo ảnh, vô thường.
(Xem: 12088)
Rong ruổi trên những nẻo đường quê tháng 8, chợt tiếng trống múa lân trong ngõ nhà ai rộn lên từng hồi làm lòng tôi chợt thấy xuyến xao bao nỗi niềm nhớ...
(Xem: 12220)
Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa. Ừ! ai cũng hay nhìn cuộc đời qua lăng kính của mình. Chuyện anh Cuội theo đó sinh nhiều ngõ ngách nhiêu khê...
(Xem: 11865)
Đây là một câu chuyện thật về sự hi sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàngNhật Bản. Sau khi trận động đất đã qua đi...
(Xem: 11442)
Mười năm hay bao nhiêu năm đi nữa, thì ánh đạo từ bi và niềm tin của em đối với chị vẫn nguyên vẹn như cái thuở chúng ta cùng hiện hữu trên cõi đời này.
(Xem: 11897)
Dư âm về người là đời sống thanh cao thoát tục, là hạnh nguyên vị tha, là quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Sư ra đi mang theo nhiều tâm nguyện còn dang dở.
(Xem: 12001)
Sáu mùa xuân trôi qua kể từ ngày chị rời xa trần thế, tôi vẫn không ngờ mình đã xa chị trong ngần ấy thời gian. Một người chị mà tôi luôn gắn bó trong suốt quãng đời tuổi thơ.
(Xem: 13403)
Từ cuối tháng 7 âm lịch, hoa ngô đồng bắt đầu rộ đỏ trên toàn đảo, làm cho Cù Lao Chàm thêm một vẻ đẹp vừa sinh động lại vườn huyền hoặc.
(Xem: 12288)
Biết cảm thông và chia sẻ niềm an vui với huynh đệ, lắng nghe và chấp nhận yếu kém của người khác để cùng nhau tinh tiến tu học, đó là những hạt giống thiện lành.
(Xem: 11771)
Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo...
(Xem: 11471)
Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph.
(Xem: 10803)
Mỗi chuyến đi là mỗi tầm nhìn được mở rộng. Mỗi chuyến đi giúp chị nhận thức rõ hơn bức tranh muôn màu của kiếp sống nhân sinh.. Chị có được những giây phút tĩnh lặng...
(Xem: 10124)
Bờ biển buổi sáng thật yên tĩnh. Tôi đi lần ra cồn cát ngay phía trước cổng chùa. Nước rút làm cho bờ cát thoai thoải trải dài một màu trắng bạc lấp lánh.
(Xem: 10589)
Dù gì thì đời sống tu hành của thầy cũng thật giản dị. Nơi thầy ở vẫn là mái am tranh đơn sơ, ăn uống thì đạm bạc, áo vải sờn vai mà vẫn thong dong tự tại với tháng ngày.
(Xem: 10887)
Quanh bờ suối, rải rác nhiều tảng đá lớn nhỏ với đủ hình thù tạo dáng lạ mắt gợi lên một phong cảnh trầm mặc u nhàn. Tuấn nhìn thấy màu y vàng của một vị sư...
(Xem: 10334)
Thời gian thấm thoắt qua nhanh, cuối cùng Ông tìm đến khu rừng Tuyết này để tịnh tu. Đạo mầu chưa chứng, nhưng Ông cũng tự tìm thấy niềm vui trong pháp thiền định.
(Xem: 11348)
Ấn tượng nhất vẫn là tượng Phật lộ thiên cao gần ba mươi mét, uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời gió núi. Tượng Phật đúc xi măng, trong ruột đổ đá xanh...
(Xem: 9951)
Ánh nắng chiều xuyên qua cửa sổ làm thầy thức giấc. Bước ra sân, thầy ngạc nhiên nhận ra cây cỏ trong vườn dịu dàng lan tỏa một sắc xuân.
(Xem: 10919)
Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật.
(Xem: 11166)
Mấy năm sau này mẹ chị thích lui về sống cuộc đời tu niệm tại gia. Thế là chị cho xây một am thất ngay trong khu vườn cây xanh tĩnh lặng ở ngoại ô...
(Xem: 12634)
Thầy luôn ở bên cạnh, đôi mắt hiền từ nhìn con đầy tình thương ấm áp của người cha, miệng mỉm cười trao truyền sự an lạc từ tâm hồn tới tâm hồn.
(Xem: 12991)
Kính bạch thầy Quan Thế Âm. Thầy là vị Bồ tát có lòng đại từ, đại bi nên thầy có thể nghe mọi nỗi khổ đau của không chỉ nhân thế mà cả vạn loại chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11976)
Kính bạch thầy Di Lặc. Thầy có biết không, con đã ứng dụng thực hành giáo lý mà thầy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy. Mỗi ngày con phải biết mỉm cười...
(Xem: 11712)
Nếu hành Bồ tát đạo thì bạn sẽ kiến tạo được bằng an cho mình - một trong vô vàn chúng sinh trong lục đạo. Khi ấy bạn sẽ có vốn liếng bằng an để hiến tặng cho người.
(Xem: 11455)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ biểu hiện khi tâm ta bị màn vô minh che lấp, bị chi phối bởi sự điều động của bản ngã tham sân si.
(Xem: 10210)
Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử chân chính...
(Xem: 11927)
Hãy im lặng để nhìn thì tôi tin bạn sẽ “ngộ” ra nhiều thông điệp sống mà cuộc đời trao ban cho mình.
(Xem: 10985)
Trời ở đây đã bắt đầu vào thu. Mỗi sớm mai khi mở cửa tôi vẫn được nhìn thấy mặt trời dần lên sau những cụm mây hồng.
(Xem: 10931)
Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.
(Xem: 12686)
Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi.
(Xem: 16400)
Chùa Thiện Minh, nơi tổ chức Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ 5, do Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt là trưởng ban... Thích Nguyên Siêu
(Xem: 12174)
Ðạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh...
(Xem: 11915)
Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây.
(Xem: 10478)
Sư vốn con nhà trưởng giả ở Kinh Thành. Xuất gia từ nhỏ. Cốt cách tài hoa, nên càng lớn càng tự thị. Sở học rộng rãi.
(Xem: 10604)
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
(Xem: 10526)
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó.
(Xem: 11718)
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
(Xem: 12264)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
(Xem: 11783)
Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng.
(Xem: 10682)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11202)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant