Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái Gốc Của Sự Hoằng Pháp

12 Tháng Hai 202118:59(Xem: 3569)
Cái Gốc Của Sự Hoằng Pháp

Cái Gốc Của Sự Hoằng Pháp 

Thích Trung Hữu


Khởi Tâm Tức Là Vọng



Hoằng pháp
là một trong những trách nhiệm quan trọng của người đệ tử Phật. Chính vì thế mà chư tổ dạy rằng “Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bổn hoài”, coi việc hoằng pháp lợi sanh như là sự nghiệp, là điều mà người con Phật luôn canh cánh bên lòng. Tùy theo hoàn cảnhthời đại mà việc hoằng pháp có những nhu cầu và cách thức khác nhau mà những người làm công tác hoằng pháp cần hiểu rõ để cho việc hoằng pháphiệu quả cao. Hiện nay Phật giáo Việt Nam đang đẩy mạnh công tác hoằng pháp, coi đó là chiến lượt mũi nhọn để phát triển Phật giáo. Tuy nhiên, theo thiển ý của người viết thì dù là dùng phương pháp gì để hoằng pháp đi nữa thì điều trọng tâm cốt lõi phải là sự tu họcđời sống an lạc của chính tăng ni, chủ thể hoằng pháp.   

Để hiểu rõ tại sao trong việc hoằng pháp cần phải chú ý đến đời sống của tăng ni, trước hết chúng ta cần xác định mục đích của hoằng pháp là gì. Mục đích của hoằng pháp căn bản có hai điều: Một là giữ gìn cho Phật pháp được trường tồn, và hai là phụng sự xã hội, đem lại lợi ích, an lạchạnh phúc cho tất cả chúng sanh. Nhưng làm sao để cho Phật pháp được trường tồn, cho Phật giáo được ổn định, hưng thịnh và phát triển? Để cho Phật pháp phát triển chúng ta phải làm rất nhiều thứ, nhưng nền tảng vẫn là hàng ngũ tu sĩ Phật giáo, tức là chư tăng, chư ni, chủ thể hoằng pháp. Tăng nivai trò vô cùng quan trọng trong việc giữ gìn ngọn đèn Chánh pháp, làm cho Phật pháp hưng thịnh và phát triển. Cho nên trong việc hoằng pháp, tăng ni phải là đối tượng quan tâm hàng đầu. Tăng ni tốt Phật pháp sẽ tốt. Tăng nian lạc, hạnh phúc thì mới đem an lạc, hạnh phúc đến với cuộc đời.

Một câu hỏi đặt ra ở đây là hiện nay tăng ni có thật sự an lạchạnh phúc trong cuộc sống tu hành của mình chưa? Cuộc sống trong chốn thiền môn có phải là cảnh niết bàn chưa? Hình như từ trước  đến giờ chưa có ai đặt ra vấn đề này. Giáo hội Phật giáo nói chung và trụ trì các tự viện nói riêng chỉ hô hào tăng ni phải hoằng pháp ngoài xã hội nhưng lại quên quan tâm đến việc tăng nihoằng pháp cho chính mình chưa, tức là có hưởng được lợi ích, sự an lạc từ Pháp hay chưa? Giáo hội các cấp tổ chức rất nhiều hội nghị hoằng pháp để hội thảo và đề ra phương pháp phát triển Phật pháp trong xã hội nhưng chưa có một hội thảo nào để thảo luận về sự tu hành của tăng ni, làm sao cho tăng ni, nhất là những tăng ni trẻ, được an vui trong cuộc sống tu hành của mình. Tôi nhớ có một báo tựa đề là “Xã hội cần gì ở Phật giáo?”. Nhưng tôi nghĩ rằng trước khi hỏi xã hội cần gì ở Phật giáo, ta nên hỏi “Người tu cần gì?”. Xã hội cần rất nhiều thứ ở Phật giáo. Xã hội cần Phật giáo nuôi họ khi về già, cần Phật giáo làm từ thiện, cần Phật giáo mở lớp để giữ con cho họ yên tâm đi làm... Phật giáo nói chung và tăng ni nói riêng không thể nào đáp ứng hết cái mà xã hội cần. Mà nếu như tăng ni có thể đáp ứng hết được thì họ có còn là tu sĩ Phật giáo đúng nghĩa nữa không? Khi nghe một số người yêu cầu/chủ trương tăng ni nên học đại học sư phạm mầm non để nuôi trẻ em thì một vị ni sư đã bức xúc nói rằng: “Nếu muốn nuôi thì tự ‘tao’ đẻ tao nuôi chứ mắc gì đi nuôi con người khác”. Rõ ràng mục đích đi tu là để tìm cầu giác ngộ giải thoát chứ không phải đi tu là để giữ em. Phật giáo chủ trương phục vụ chúng sanh có nghĩa là đem giáo pháp để dạy người ta tu hành chứ không phải phục vụ về mặt vật chất. Nhưng tăng ni muốn đem giáo pháp để lợi lạc chúng sanh thì trước hết tăng ni phải thật sự cảm nhận được lợi lạc từ giáo pháp trước. Nếu bản thân mình không thấy có gì lợi lạc trong giáo pháp mà lại đi đem giáo pháp ấy cho người khác thì việc hoằng pháp chỉ có hình thức mà thôi. Một số tăng ni hiện nay dấn thân vào con đường hoằng pháp, lấy việc hoằng pháp và cứu giúp người khác làm niềm vui. Điều này có thể rất tốt mà cũng có thể rất tai hại. Nó tốt khi người đó có niềm vui nội tâm do ứng dụng giáo pháp rồi đem lợi ích ấy chia sẻ với mọi người. Nhưng nếu như bản thân người đó không có gì, thì hình thứchoằng phápthực ra đó là hướng ngoại, chạy theo niềm vui bên ngoài, rốt cuộc không thoát khỏi cái lưới danh lợithế gian. Thay vì hỏi xã hội cần gì ở Phật giáo, chúng ta nên quan tâm hơn người tu cần gì khi chọn cuộc sống tu hànhcho phép họ được sống đúng với ước nguyện tu hành của họ.

Việc tu hành ngày xưa khá đơn giản. Ngày nay do tác động và nhu cầu xã hội, người tu cũng phải chịu nhiều áp lực. Để cho tăng ni được an tâm tu hành và có điều kiện tu tập phát triển tâm linh, theo tôi, Phật giáo nói chung cần làm những điều sau đây:

Đối với Giáo hội thì các cấp Giáo hội cần hỗ trợ tăng ni về mặt hành chánh, tạo điều kiện thuận lợi để tăng ni có thể yên tâm tu học một cách hợp pháp.

Đối với thầy tổ thì cần đối xử với đệ tử như cha mẹ đối với con cái, lo cho đệ tử đầy đủ từ vật chất đến tinh thần, có trách nhiệm dạy chúng nên người, cũng như hướng dẫn chúng tu học đúng Chánh pháp.

Đối với trụ trì thì cần đảm bảo nơi ăn chốn ở cho Chúng, không được để quá thiếu thốn. Trụ trì chỉ nên coi mình như người đại diện chùa quản lý công việc, điều hànhcoi sóc việc tu học của Chúng. Trụ trì và Chúng nên thân thiện, chan hòa chứ không nên coi mình như chủ chùa còn Chúng như người ăn nhờ ở đậu, vui thì cho ở, không vui thì đuổi đi, hoặc làm khó làm dễ, khiến cho Chúng không thể an tâm tu hành.

Đối với tăng ni nói chung, nhất là những người mới xuất gia thì cần phải nhận thứclý tưởng của người xuất gia. Lý tưởng của người xuất gia không phải là hưởng thụ vật chất, không phải là làm giàu hay trở thành người nổi tiếng. Lý tưởng của người xuất gia là sống cuộc sống cao thượng vượt lên trên những thứ tầm thường như tình tiền danh lợi của thế gian, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.

Ngoài ra, Phật giáo nói chung cần nên tiết kiệm. Tổ chức các sự kiện nên chú trọng nội dung hơn là hình thức. Tôi thấy một số chùa tổ chức lễ lạc, chỉ trang trí không thôi mà đã tốn hàng chục triệu, quá lãng phí. Bản thân người tu không làm gì ra tiền. Muốn có tiền phải kêu gọi phật tử hoặc làm cách này cách nọ, trong đó cũng có những cách không hợp với người tu. Tu mà cứ bị áp lực tiền bạc thì tâm làm sao tu hành cho được.

Trong thời đại vật chất phát triển như ngày nay, con người không dễ gì từ bỏ sự hưởng thụ dục lạc để sống đời sống lý tưởng. Cho nên chúng ta càng phải trân trọngthương yêu những người dám từ bỏ gia đình sống không gia đình. Phải bảo vệ những người mới phát tâm xuất gia như bảo vệ mầm non, chứ nếu đi tu mà khổ quá thì thử hỏi ai dám đi tu.

Nhiều người nghĩ rằng hoằng pháp là làm cái nọ cái kia để thu hút tín đồ như tổ chức phóng sanh, làm từ thiện, mở khóa tu cho phật tử... Những việc làm này là cần thiết nhưng nó không phải là cái gốc của sự hoằng pháp. Cái gốc của sự hoằng pháp chính là mỗi tăng ni đều được sống và tu học an vui trong Chánh pháp. Bởi vì một điều đơn giảnchúng ta không thể cho người khác cái mà ta không có. Chúng ta không thể cho người khác sự an vui khi bản thân chúng ta không có sự an vui đó. Thông thường chúng ta cho rằng hoằng pháp là chuyện của những người thuộc ủy viên ban hoằng pháp. Thật ra tất cả tăng ni hay thậm chí phật tử đều là ủy viên ban hoằng pháp cả, vì hễ là người con Phật đều có trách nhiệm truyền bá giáo pháp chân chính của đức Phật. Và ai cũng có khả năng làm việc đó. Đâu phải đăng đàn thuyết pháp mới là hoằng pháp. Đâu phải đi làm từ thiện hàng trăm triệu hay tổ chức chương trình này nọ mới là hoằng pháp. Chỉ cần tất cả người tu được an vui trong Chánh pháp, nội tâm được hạnh phúc thì nguồn năng lượng an lành đó lan tỏa trong thế gian, khiến cho ai thấy nghe đều cảm thấy an lànhphát tâm thực hành theo giáo pháp thì đó là hoằng pháp rồi còn gì.

Sở dĩ tôi phải viết bài này là vì tôi hay tin một ni sinh trẻ vừa tự tử qua đời, nguyên nhân được cho là do trầm cảm. Thật ra việc một người tu tìm cái chết cũng không phải là cái gì ghê gớm lắm vì người tu thì cũng là con người như bao nhiêu người trong xã hội này, nhưng nó cũng nói lên một điều rằng họ không an lạc trong cuộc sống đời tu. Ta thử nghĩ, hoằng pháp để cho có nhiều người theo Phật giáo nhưng bản thân người tu không hạnh phúc việc có nhiều tín đồý nghĩa gì không, có làm cho Phật pháp trường tồn không?


Thích Trung Hữu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16675)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20568)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18270)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19843)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14842)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12970)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13951)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13146)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14005)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17634)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15394)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14690)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14454)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17851)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21893)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20603)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25133)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16875)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14709)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18974)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21999)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25278)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15769)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20722)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17008)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18631)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20016)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39305)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31506)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36010)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23861)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26547)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant