Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Giáo Dục Tăng NiPhật Tử

21 Tháng Tư 202117:59(Xem: 3091)
Sự Giáo Dục Tăng Ni Và Phật Tử
Sự Giáo Dục Tăng NiPhật Tử  

HT. Thích Như Điển

buong bo


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Ngưỡng bạch Hòa Thượng Phó Viện Trưởng, Viện Hóa Đạo GHPGVNTN Kính bạch chư Tôn Đức;
Kính thưa toàn thể quý Đạo Hữu và quý Phật Tử

Trong kỳ Đại Hội Khoáng Đại kỳ II lần nầy chúng con tôi) được phép trình bày với quý Ngài và quý vị một đề tài có liên quan đến sự tu họcphương hướng tổ chức để hướng đến một kết quả cụ thể cho cả 2 giới Tăng Sĩ và Cư Sĩ. Đó là: “Sự Giáo Dục Tăng Ni, Phật Tử”.

Thông thường bất cứ ai trong chúng ta cũng không thể tự hào rằng, không nhờ sự đào tạo, hướng dẫn, giáo dục mà thành người được; nhất là một người Tăng Sĩ để lèo lái tổ chức của Giáo Hội, hoặc một cư sĩ thuần thành để hỗ trợ cho Giáo Hội trên mọi phương diện về đường lối phát triển mang tính cách nhân bản của Đạo Phật.

Giáo có nghĩa là dạy, chỉ bày; dục có nghĩa là hướng đến, mong muốn để trở thành. Vậy giáo dục có nghĩa là hướng dẫn mọi người hướng đến một mục đích đã định sẵn có cơ bản văn hóa.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chúng ta tại quốc nội cũng như hải ngoại xưa kia và ngày nay đã đóng góp vấn đề nầy cho quê hương và Giáo Hội qua nhiều hình thức khác nhau như: đào tạo Tăng tài qua các Phật Học Viện, Trường Trung Học Bồ Đề, Đại Học Phật Giáo v.v… Đối với người cư sĩ Phật Tử, Giáo Hội cũng đã quan tâm hướng dẫn qua các khóa tu học ngắn hạn như Bát Quan Trai Giới và những buổi hội thảo ngắn hoặc dài hạn v.v… Nhưng ngày nay chúng ta đang sinh sống tại ngoại quốc. Do đó, chúng con tôi) xin đề nghị Giáo Hội có một chương trình Giáo Dụcđào tạo cho Tăng Ni cũng như Phật Tử theo kinh nghiệm của bản thân của chúng con tôi) gần 30 năm qua sống tại Hải Ngoại nầy.

A- Đối với Tăng Ni:

Như tất cả chúng ta đều biết, Tăng Ni là những bậc thế gian trụ trì Tam Bảo. Ngoài việc thể hiện giới đức trang nghiêm, tu hành nghiêm mật; người Tăng Sĩ cũng cần phải có một trình độ học vấn về Đời cũng như về Đạo khả dĩ, ít nhất là cấp bậc đại học thì mới mong hướng dẫn được quần chúng một cách có hiệu quả.

Ở ngoại quốc ngày nay nếu chúng ta thực hành theo lối Giáo Dục Ngũ Minh của Phật Giáo mà chư Phật, chư Tổ trong quá khứ đã thực hành, thiết tưởng cũng đã đầy đủ. Tuy nhiên chúng tahoàn cảnh địa lý hoặc kinh tế khó khăn, chúng ta chưa có cơ hội để thực hiện trọn vẹn ý nghĩa nầy.

Ngược lại chúng ta có một môi trường rất rộng và thoáng để chấp nhận một lối giáo dục của Tây Phương theo tinh thần Tây học và lấy Đạo Học Đông Phương để ứng dụng vào lối sống hằng ngày, thì chắc rằng chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp hơn.

Ở hầu hết các nước Âu, Mỹ, Á … nơi mà chúng con tôi) đã có cơ hội đi qua, tại các Đại Học lớn đều có phân khoa Tôn Giáo học và Phật học; nếu một vị Tăng hay Ni sau khi được thế phác xuất gia, có trình độ tú tài, có thể ghi danh hoặc thi vào những phân khoa nầy không khó khăn mấy; nhất là phải được sự động viên của vị Thầy Bổn Sư, hướng những Tăng Ni trẻ nầy đến mục tiêu ấy.

Theo chúng con tôi) nghĩ rằng: Đạo Phật không chỉ nằm thuần túy trong phạm trù của khoa học Tôn Giáo, mà người Tăng Sĩ có thể vươn vai cao rộng hơn nữa ở các phân khoa như triết học, giáo dục, ngôn ngữ v.v… thì chúng ta vẫn có một vị trí xứng đáng và nhất định để khi tốt nghiệp có thể đi làm việc sau nầy.

Thế hệ đi trước tại ngoại quốc nầy là một thế hệ hy sinh, dấn thân để làm một chiếc cầu nối giữa quá khứ và tương lai; nên chúng ta đã mất rất nhiều thì giờ cho việc xây dựng cơ sở chùa chiền, ổn định đời sống tu học cho Phật Tử. Do vậy mà bản thân các vị trụ trì về phần ngôn ngữ cũng như thế học rất khó để mà thành tựu các học trình. Ngoại trừ những vị Tăng Ni chỉ thuần có vấn đề học tập.

Nhưng đến thế hệ thứ 2 và thứ 3 thì không thể tiếp tục kế thừa như thế hệ thứ nhất ở ngoại quốc đã đi qua. Vì lẽ thời gian luôn luôn thay đổi thì sự tiến hóa của con người không thể dừng lại một chỗ được. Do vậy xin đề nghị rằng quý Thầy, quý Cô Bổn Sư của những Tăng Ni kế thừa đó phải khuyến khích cho đệ tử của mình vào trường Đại Học để được huấn luyện.

Dĩ nhiên khi độ đệ tử thì chẳng mấy ai chỉ mong đệ tử mình chỉ giúp những công việc lặt vặt của chùa, mà chắc chắn rằng vị Bổn Sư nào cũng mong rằng đệ tử của mình sẽ trở thành lương đống của Phật Giáo, cho nên không thể khư khư giữ đệ tử của mình ở lại chùa, mà phải hy sinh những cái gì đáng hy sinh, nhất là thời gian cho đệ tử của mình đi học.

Về phương tiện học cũng như nhu cầu của một sinh viên Tăng hay Ni cũng đa dạng; nhưng không đến nỗi một vị Bổn Sư không thể chu toàn tại trường Đại Học được. Đó là vấn đề học phí, nơi ăn chốn ở v.v… Còn vấn đề tinh thần cũng không kém phần quan trọng hơn. Vì lẽ vị Thầy Bổn Sư bao giờ cũng là nơi nương tựa cho Tăng Ni mới bước vào ngưỡng cửa của Thiền Môn. Đây là một trợ duyên không thể nào thiếu được.

Có nhiều Thầy Cô phải ở nội trú tại Đại Học mới học được; nhưng cũng có nhiều vị, trường ở gần chùa lại tiện lợi hơn. Khi về lại chùa có cơ hội trau giồi thêm nội điển; nhưng chúng con tôi) cũng biết được tâm lý của nhiều nghiên cứu sinh ít muốn điều nầy. Vì ở chùa có quá nhiều công việc để làm. Nếu không làm thì lương tâm cắn rứt, mà dành nhiều thì giờ cho chùa thì việc học lại ngưng trệ.

Vì vậy chúng con tôi) xin đề nghị rằng: Các Tăng Ni Sinh trẻ có thể đi học ở trường 4-6 tiếng. Về chùa tu học cho mình 2 đến 4 tiếng, thế là vừa. Vì lẽ dễ hiểu là tuổi để đi học luôn luôn có giới hạn, còn công việc làm thì không có giới hạn bởi thời gian. Ví dụ người Tăng Sĩ trẻ có thể đi học cho đến 40 tuổi. Sau tuổi đó ra phục vụ cho Giáo Hội chừng 20 năm. Lúc lớn tuổi lo nhập thất để tịnh tu, dịch kinh, dịch sách vẫn là điều lý tưởng vô cùng.

Ngoài ra cũng có một số quý Tăng Ni trẻ không thích chương trình thế học thì cũng nên tìm một nơi nào đó có chương trình giáo dục đào tạo tương đối khả dĩ để nương theo như một chương trình Phật Học Viện, quả là điều cũng đáng tán thán biết bao. Những điều không nên quên là ngoại ngữ. Hai ngôn ngữ không kém phần quan trọng đối với người tu sĩ trong hiện tại khi chúng ta ở ngoại quốc nầy là Anh Văn và Hoa Ngữ. Đây là 2 ngôn ngữ thực dụng trong cuộc sống tu học của một học tăng vậy.

Xin nhấn mạnh một điều là không nên quan niệm chùa chiền, tu viện là nơi chỉ để di dưỡng tinh thần, hoặc cầu an thụ động, mà ngôi chùa đó, tự viện đó ngoài đời sống tín ngưỡng ra, phải có một lối sống văn hóa cao, vì chúng ta đang sống trên các nước có nền văn minh nhất nhì trên thế giới nầy.

Những vị lớn tuổi cũng có thể xuất gia tu họcdĩ nhiên vị Thầy Bổn Sư cũng là nơi nương tựa vững chắc nhất. Thầy Bổn Sư sẽ giúp đỡ những gì cần thiết nhất cho một hành giả tu theo pháp môn mình đã lựa chọn. Xin trình bày thật với Thầy của mình, không có gì ngần ngại cả.

Sự học không giúp mình giải thoát được; nhưng muốn mở cánh cửa giải thoát, không thể thiếu sự học được. Do đó con đường tương lai của Giáo Hội, dầu chúng ta đang sống ở Đông, Tây, Nam, Bắc của quả địa cầu nầy, chúng ta không thể quên trách nhiệm làm Thầy nầy đối với đệ tử xuất gia của mình được.

Mỗi một thế hệ sẽ khác hơn. Khoa học càng ngày càng tiến bộ và đổi mới, thì sự học tập của những thế hệ Tăng Sĩ trẻ trong tương lai cũng không thể dừng bước tại đây. Do vậy chúng tôi xin đề nghị có những vị Bổn Sư cũng không nên mặc cảm khi đệ tử của mình có sở học hơn mình. Vì điều đó thật ra là phước đức lớn của tông môn mình, chứ đâu có gì mà ngần ngại phiền trách.

B.- Sự Giáo Dục đối với Cư Sĩ:

Chúng tôi vẫn thường hay quan niệm rằng: hai giới xuất giatại gia cũng giống như hai cái cánh của một con chim Đại Bàng. Đại Bàng sẽ cất cánh khi nào có đủ điều kiện. Đó là 2 cánh đầy đủ. Nếu Đại Bàng gãy cánh, dầu cho cánh phía trái hay cánh phía phải cũng đau lòng vô cùng, sẽ làm ảnh hưởng đến bà mẹ Việt Nam, đến Tổ Quốc Việt Nam và đến chư Tổ Sư đã dày công truyền đạt từ nhiều đời rồi.

Có nhiều tự viện giữa Tăng Sĩ và Cư Sĩ có rất nhiều vấn đề. Vị Tăng Sĩ thì trách cứ những vị Cư Sĩ không thuần thành. Trong khi đó các vị Cư Sĩ thì đi rỉ tai nhau là Thầy mình thế nầy, thế nọ, mà chẳng ai trong chúng ta không tự trách mình rằng: chính mình thiếu tu và thiếu phước.

Ở nhiều buổi giảng công cộng chúng tôi cũng đã trình bày quan điểm nầy như sau: Ngày nay chúng ta ở Hải Ngoại nầy cái gì chúng ta cũng thừa cả. Ví dụ như dư áo, dư quần, dư giày, dư dép. Thừa tiền, lắm bạc v.v… nhưng chắc chắn một điều chúng ta vẫn còn thiếu tu nên mới sinh ra nông nỗi ấy. Do từ niềm khắc khoải nầy, cho nên chúng con tôi) xin đề nghị một số phương hướng giáo dục cho các Phật Tử Cư Sĩ như sau:

Mỗi năm tại mỗi châu lục, Giáo Hội chúng ta nên tổ chức nhiều khóa tu khác nhau. Ví dụ như tu gieo duyên, tu học Phật Pháp, tu bát quan trai v.v… mỗi lần như thế từ 2 ngày đến 10 ngày hoặc nửa tháng và mỗi năm được như vậy nhiều lần thì quý hóa biết là bao. Nhiều người trong chúng ta ai cũng bảo rằng tôi không có thì giờ, tôi không có điều kiện v.v… nhưng sự chết thì nó không hẹn giờ với chúng ta đâu. Tử thần đến thì phải đi, đâu có cơ hội để mà than thở nữa.

Cũng xin đừng tự nghĩ rằng chỉ có một mình mình mới đảm nhận được công việc đó, còn kẻ khác thì không. Điều ấy do tính ỷ lại và người lãnh đạo kia chứng tỏ rằng không có sự tin tưởng đối với thuộc hạ của mình. Có một ông Giám đốc của một hãng lớn kia, bao nhiêu việc ông cũng phải ôm đồm hết và ông ta luôn luôn tuyên bố rằng: không ai có thể thay thế cho ông được; nên ông không có thì giờ để đi tu học hay tham dự những chương trình của Giáo Hội đề ra; nhưng có ngờ đâu ngày hôm sau, ông ta bị tai nạn chết. Thế là 2 ngày sau hãng kia đã có một ông Giám đốc mới rồi. Từ đó suy ra, không phải không có ta là vũ trụ nầy phải dừng lại đâu. Vì lẽ ta chỉ là một hạt cát rất nhỏ trong vũ trụ nầy.

Người Cư Sĩ, Phật Tử tại gia cũng cần tu học và giữ giới như người xuất giahọc hạnh của người xuất gia thì mới hiểu được giới thể, giới tánh, giới tướng là gì, ví như Ưu Bà Tắc Giới Kinh, Bồ Tát Thiện Giới v.v… đã dạy, nhằm trang nghiệm Phật tánh nơi Tăng Sĩ và Cư Sĩ. Có như thế sự hiểu biết nhau, thông cảm nhau mới sâu sắc hơn. Khi người Cư Sĩtu học, có thực hành giới luật thì mới thông cảm sự giữ giớigiá trị như thế nào.

Giáo Hội cũng nên mời những vị Giáo Thọ có sức tu và sức học cao thâm rộng rãi đến để hướng dẫn cho những khóa tu nầy. Và bao giờ cũng vậy, đức chúng vẫn như hải. Khi có chư Tăng vân tập đông đủ nơi những đạo tràng thanh tịnh thì chư Phật Tử nương tựa vào đó để thành tựu những công đức của mình và đặc biệt là sự kính trọng, thông cảm, hiểu biết với chư Tăng càng ngày càng gần gũi hơn và sẽ không bao giờ có cảnh Thầy tố trò, trò tố Thầy như giai đoạn trong hiện tại đã xảy ra khắp nơi trên các châu qua báo chí và truyền thanh cũng như truyền khẩu. Chỉ vì chúng ta thiếu để ý đến vấn đề giáo dục cho những người Phật Tử ngay từ lúc ban đầu.

Xã hội nầy ngày xưa hay ngày nay cũng vậy, nó không bắt đầu khởi đi từ một tổ chức to lớn, từ một cộng đồngquy củ trước, mà tất cả đều khởi đi từ con số không trước, rồi đến một, hai, ba. Vì thế, mỗi đơn vị cá nhân trong gia đình rất quan trọng; nếu cá nhântu học, tín sâu, hiểu rộng nơi 3 ngôi báu thì chắc chắn rằng gia đình ấy sẽ hạnh phúc và từ đó sẽ lan ra thêm trong gia đình, thôn ấp, làng xã và cuối cùngxã hội. Lúc bấy giờ sẽ không cần tìm kiếm sự an lạchạnh phúc ở đâu xa cả mà ở chính nơi đây và ở tự mỗi con người.

Ở nước ta chưa có vấn đề tu gieo duyên, nghĩa là tu ngắn hạn cho người tại gia như ở các nước Nam Tông trên thế giới, để người tại gia có cơ hội gần gũi tiếp xúc với đời sống tu hành. Ngày nay có một vài nước trên các châu đã thực hiện được điều nầy và kết quả cho thấy không xấu đi chút nào, mà ngược lại là đằng khác. Vì trong số tu gieo duyên ấy, sẽ có nhiều người phát tâm xuất gia cũng như hộ đạo một cách nhiệt thành.

Quan niệm ngày xưa và ngay cả bây giờ đối với người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước là: rất cung kính đối với những bậc xuất gia chân tu thực học; nhưng nếu rủi ro người xuất gia ấy có một chút tỳ vết gì đó, hay không tu được nữa, vì nghiệp duyên phải ra đời, thì người Phật Tử có một cái nhìn không thiện cảm mấy. Đây là một điều sai trái vô cùng. Vì lẽ, nếu bảo là nghiệp thì mỗi người phải tự chuyển nghiệp của mình, chứ chẳng ai giải nghiệp cho mình ngoại trừ mình cả và việc xuất gia tu đạo là điều tự nguyện, chứ chẳng phải bị bắt buộc. Do đó giữa đường không tiếp tục được nữa cũng giống như chúng ta không mang nặng được một gánh nặng trên vai, thì chúng ta có quyền để gánh ấy lại ngơi nghỉ trong kiếp sống luân hồi nầy, chẳng có lỗi gì cả. Nếu tiếp theo trong cuộc sống nầy hay ở một kiếp lai sinh nào đó, con đường giải thoát ấy muốn tiến tu, thì cá nhân kia phát nguyện đi tiếp nữa để cho trọn nẻo luân hồi. Theo chúng con tôi) không có tội lỗi gì cả. Thế mà đã có biết bao nhiêu tăng sĩ sau khi ra đời rồi, đâu còn dám đến chùa nữa; cũng chỉ vì sự giáo dục tư tưởng nầy cho chính người tu cũng như cho Phật Tử tại gia còn rất giới hạnmơ hồ.

Giáo Hội chúng ta cũng nên khuyến khích cho nhiều Phật Tử thọ tại gia Bồ Tát Giới. Vì có thọ giớigiữ giới thì mới cảm nhận được giới pháp rất cao cả và ai trong chúng ta cũng phải có bổn phận thực hành giới luật, chứ không phải giới luật chỉ để dành riêng cho người Tăng Sĩ.

Đức Phật ngày xưa đã chẳng phải dạy chúng ta là gì? Ngài bảo rằng: Đệ Tử của ta gồm 2 hạng – Người xuất gia có bổn phận hoằng pháp lợi sanh và kẻ tại gia có bổn phận hộ trì Tam Bảo. Nếu chúng ta thực hiện theo con đường giáo dục nầy, chắc chắn chúng ta sẽ không có vấn đề. Vì ngày nay có nhiều vị xuất gia không làm nhiệm vụ của mình mà đi làm một nhiệm vụ khác, ngoài nhiệm vụ hoằng pháp. Còn người tại gia thì ngược lại, vì bao giờ cũng đông hơn người xuất gia. Do đó có nhiều nơi, người tại gia đảm nhận luôn nhiệm vụ của người xuất gia, như thuyết giảng, hướng dẫn lễ nghi v.v… Đây là một sự giáo dục nghịch hướng. Kính mong chư Tăng đoái hoài lại việc nầy. Dĩ nhiên người Cư Sĩ cũng có quyền học hỏi mọi phạm vigiới luật cho phép; trong khi đó chư Tăng Ni lại hững hờ với nhiệm vụ của mình, quả là một điều đáng nói biết bao.

Nhìn lại lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, Phật Giáo Nhật Bản, Triều Tiên, cũng như các nước Đông Nam Á châu khác, Việt Nam chúng ta phải tự thẹn thùng. Vì lẽ trong quá khứ chúng ta không thiếu những bậc chân tu hiền đức; nhưng trong hiện tại chúng ta hầu như bị thất truyền. Ngày nay ít có bậc chân tu như Tây Tạng, Bhutan. Do vậy mà bao nhiêu chướng duyên đã xảy ra dồn dập đó đây và kết quả là Phật Giáo chúng ta bị nạn. Chung cho cả Giáo Hội, chứ chẳng phải riêng cho một cá nhân nào.

Con người mà không có giáo dục là một con người thiếu văn hóa. Một tổ chức mà đường hướng giáo dục không rõ ràng thì chắc chắn rằng tổ chức ấy sẽ không bao giờ phát triển lớn mạnh được. Do đó, một Giáo Hội như GHPGVNTN của chúng ta gồm nhiều tổ chức khác nhau ngồi lại và nhiều thành phần nhân sự khác nhau để hợp thành, do vậy phải cần có một đường lối rõ ràng hơn, để mọi người lấy đó làm khuôn mẫu trong việc tu học cũng như hộ trì Phật Pháp.

Nhìn khắp năm châu, nhân tài Việt Nam chúng ta không thiếu. Đâu đâu cũng có nhiều người, nhất là những người Phật Tử tại gia đang nắm giữ nhiều chức vụ then chốt trong nhiều tổ chức. Họ có nhiều cơ hội để thăng hoa trong đời sống cá nhân; nhưng Phật Giáo chưa nhờ cậy hết được những người Phật Tử Cư Sĩ trí thức nầy. Lẽ nầy do đâu, xin kính nhờ những nhà xã hội học và phân tâm học phân tích dùm. Có phải vì chúng ta có nhiều người tài giỏi quá; nên chúng ta không thể đứng chung dưới một vòm trời chăng? hay mỗi tự ngã của mỗi cá thể quá cao, chúng ta không thể nào nắm bắt được? Kính xin quý Ngài và chư vị lưu tâm về vấn đề nầy.

Một nền giáo dục nhân bản của Phật Giáo cho bây giờ và mai hậu phải kiện toàn những thiếu sót bên trên và dĩ nhiên là còn nhiều điều phải làm hơn nữa đối với những nhà giáo dục, những nhà tôn giáo luôn có tâm đối với tiền đồ của Phật Giáo và dân tộc. Mong rằng chúng ta không nên dậm chân tại chỗ. Chúng ta phải luôn luôn ý niệm rằng: Thời gian luôn thay đổi thì mọi nhân duyên, mọi pháp cũng phải chuyển động thay đổi theo. Chúng ta không được phép an nghỉ một nơi, khi hoàn cảnh chung quanh ta đều có nhiều chuyển động.

Trên đây là những ý nghĩ thật nhỏ nhoi, chúng con tôi) xin đóng góp một chút ít ý kiến thô thiển của mình cho con đường phát triển của Giáo Hội và vì thế nếu có nơi nào không ổn, kính mong quý Ngài và quý vị niệm tình hỷ thứ cho.

C.- Kết luận

Một con ngựa chạy dầu giỏi bao nhiêu đi chăng nữa; nhưng nếu không có người cầm cương hay, thì ngựa kia cũng khó mà đạt được mục đích. Một đầu máy xe lửa thật là tốt mà mang theo những toa xe cũ kỹ, hoặc ngược lại, thì chắc rằng đi chưa đến đích đã có nhiều cơ phận của xe lửa bị rã rời. Vì thế muốn được hoàn hảo, cả hai đều phải cộng tác hỗ tương cho nhau thì mới thành tựu được. Ở đây cũng thế, người Tăng Sĩ luôn luôn cố gắng học hỏi, trau dồi đức hạnh của mình, trong khi đó người Cư Sĩ luôn luôn khiêm cung, biết kính tin ngôi Tam Bảo thì cả hai đều được an lạchạnh phúc. Giáo Hội sẽ được trang nghiêm và nói như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã nói là: sự an lạc người ta không thể đi mua ở ngoài chợ được.

Chúng con tôi) xin cầu nguyện cho Đại Hội được thành công viên mãn và mong rằng những đóng góp ý kiến thô thiển của chúng con tôi) về nền giáo dục của Tăng NiPhật Tử ngày nay tại Hải Ngoại chỉ là một thiển ý của cá nhân. Nếu có gì còn thiếu sót kính xin chư vị tôn túc và quý Phật Tử hữu tâm chỉ bày cho.

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát Kính nguyện.

Trích từ bào Viên Giác Số 119 Tháng 10.2000

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11831)
Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng.
(Xem: 10729)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11257)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
(Xem: 12312)
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vân trên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc Lâm...
(Xem: 10366)
Diễm phúc sao trong phút cuối trong một đời kẻ vô nghì như tôi với quá nhiều tội lỗi lại được Hoà Thượng trụ trì ngồi niệm hồng danh Phật tiếp dẫn.
(Xem: 11530)
Hạnh phúc của con người không đến từ sự thù hận, tức giận cho nên sự trang trải tình thương trong cuộc sống xã hội là điều cần thiết nhất để hóa giải sự xung đột.
(Xem: 10911)
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc...
(Xem: 10668)
Thường hay tự nhủ rằng: Mình không có được cái diễm phúc sanh nhằm thời có Phật, nhưng được nghe Pháp Phật; được gặp người bạn đồng tu và được làm thân người.
(Xem: 10118)
Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh.
(Xem: 11466)
Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại...
(Xem: 10248)
Đức Phật không phải là quan tòa để phán xử và tự cho mình có quyền phép để đưa người này vào Thiên Đàng hay đẩy người kia xuống Hỏa Ngục.
(Xem: 11146)
Tôi hát cho mẹ bài Năm Uẩn Chẳng Là Ta phổ nhạc từ Bát Nhã Tâm Kinh. Mắt mẹ vẫn nhắm chặt, hơi thở lên xuống đều đặn.
(Xem: 12716)
Cuộc tu là một chiến trận, binh lực phải được vận dụng để đối phó với những gì thật sự là đối phương, chẳng để nhằm vào những khóm lau bụi cỏ để hái hoa bắt bướm.
(Xem: 11011)
Ðối với đạo Phật, cái chính là tinh thần từ bi bình đẳng. Từ bi bình đẳng là một trong những đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất trong Phật Giáo.
(Xem: 11955)
Sự khác biệt của mọi vật là do nghiệp riêng của chúng, chứ bản chất chúng vẫn là Chân Như. Như sóng sanh khởi từ đại dương, biến thành một làn sóng di động...
(Xem: 12009)
Một chậu quỳnh hoa có nhiều nụ là tin tức được mọi người đón chờ. Chậu hoa được đặt gần bên chánh điện, món quà sang nhất của thiền viện...
(Xem: 10503)
Tháng 8, đất trời hân hoan chào đón những đợt nắng mới, nô nức và nồng nhiệt như cảnh đồng loại đang nô đùa ngoài bể xa.
(Xem: 10927)
Khi đời sống nội tâm của bạn được lành mạnh, sung túc thì cuộc sống bên ngoài cũng sẽ ảnh hưởng theo và ngày càng trở nên phong phú.
(Xem: 10556)
Thực ra, tên gọi và hình thức món chay sẽ không là gì nếu ta không quá xem trọng nó. Mọi vật sẽ trở nên bình thường như những món quà hương vị của cuộc sống...
(Xem: 13538)
Thật vậy, luôn có một sự tương quan chặt chẽ giữa lòng vị thahạnh phúc. Nhiều công trình nghiên cứu còn cho thấy là hành động cho mang lại nhiều xúc động tốt đẹp hơn...
(Xem: 11237)
Thủy vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra xa. Đôi mắt đen láy đượm buồn. Trong nhà Thủy là người giống mẹ hơn cả, đặc biệt là đôi mắt.
(Xem: 10587)
Vậy, Tiểu Sư Phụ đi đâu? Cô bé hỏi. Nhìn đôi mắt thủy sắc, tôi trả lời - trả lời với chính mình, đi đâu à? Tôi cũng hỏi câu này nhiều lắm rồi.
(Xem: 10454)
Ca ngợi con ngườihoa sen không chỉ là tôn vinh sự chiến thắng vinh quang sau cùng của chúng, mà còn là ca ngợi sự kiên nhẫn, chịu đựng, gian khổ khó khăn...
(Xem: 12723)
Không ai có thể biết trước những gì sẽ xảy ra vào ngày mai... Thế nhưng ta vẫn có một niềm tin... Vậy thì hãy hành xử một cách tốt đẹp nhất và không hối tiếc gì cả.
(Xem: 11671)
Tôi tự nghĩ hóa ra khủng hoảng kinh tế cũng là những gì liên hệ đến xúc cảm. Tôi nghĩ rằng người ta dung túng quá đáng các thứ xúc cảm tàn phá, chẳng hạn như sự tham lam...
(Xem: 15073)
Tôi cảm thấy rằng những hệ thống không thực tế do con người tạo ra cuối cùng sẽ trở lại trong cung cách nhân bản tự nhiên. Chúng tôi yêu mến tự do.
(Xem: 16335)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 11802)
Ta hiện hữuhiện hữu với cha mẹ, với thầy, với bạn. Ta hiện hữuhiện hữu với con người, với muôn loài và với thiên nhiên. Không có cha mẹ thì sẽ không bao giờ có ta.
(Xem: 11660)
Không biết tự bao giờ, hình ảnh cái hàng rào quê bình dị, thân thương gắn liền với tuổi thơ nhọc nhằn nhưng cũng nhiều niềm vui đã in sâu trong tâm thức của tôi.
(Xem: 14038)
Như một vị Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên du hành sang phương Tây, ngài cũng đã ca tụng những đạo đức bất bạo động đến hàng triệu người...
(Xem: 12183)
Con thuyền sau những tháng năm đưa khách qua sông, rồi đỗ mục ở bến sông đời lặng lẽ… Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 13717)
Điều cần thiết, trước nhất, là xóa tan cội rễ của những cảm xúc tiêu cực, của phiền não, tiêu trừ chính nguồn gốc của sân hậnthù oán.
(Xem: 12159)
Nắng đã biến thành là thứ tâm linh vô giá, che chở cho đời, cho con người, như bàn tay của Bồ tát Quán Thế Âm, đem niềm vui hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 11614)
phải chăng sau cánh cửa hẹp là phương trời phóng khoáng, sau ưu phiềnan lạc thảnh thơi, sau bất hạnhhạnh phúc ngọt ngào…
(Xem: 13202)
Theo sự nghiên cứu, chúng tôi không hề thấy có việc đốt vàng mã cúng tế người chết được ghi trong tam tạng kinh điển của nhà Phật.
(Xem: 14326)
Tôi nghĩ con người phải mang theo tâm linh của họ - - và sự đấu tranh của họ. Và tôi nghĩ có thể là một phương pháp bất bạo động.
(Xem: 11865)
Chư Tăng sống có mục đích công ích thì quần chúng sẽ không xa rời đạo Phật; chư Tăngquần chúng đều hướng vào tâm linhcông ích xã hội...
(Xem: 12540)
Giáo lý của Đức Phật bao gồm hai mặt của một thực tại, đệ Nhất nghĩa đế thuộc bình diện siêu việtđệ nhị nghĩa đế thuộc về thế giới hiện tượng.
(Xem: 12167)
Chức năng chính của chùa chiền tự viện là hoằng duơng Phật pháp, thực tập lời Phật dạy và tổ chức các hoạt động có tính giáo dục chứ không chỉ là du lịch mà thôi.
(Xem: 12056)
Để có cái nhìn sâu sắc và thấu triệt được mọi vấn đề của cuộc sống, bạn chỉ cần lặng lẽ quan sát thân tâm mình và hoàn cảnh đương tại một cách rõ ràng, khách quan...
(Xem: 11615)
Trong một kiếp người ta có vật chất ta cũng không thể mang theo lúc chết, không có gì là của mình ngoài nghiệp, điều lành, phước báu mình đã tạo.
(Xem: 11451)
Ngày mới vào lớp một, ngày đó lớp một nhỏ nhất, không có mầm chồi lá như bây giờ, tôi đã có một người bạn. Khá thân. Hắn thương tôi lạ.
(Xem: 11495)
Ở khía cạnh tu học thì những người bạn đạo hoặc huynh đệ đồng tu chính là người thầy của mình, bởi sự tu tập và những kiến giải của họ...
(Xem: 11349)
Đây là cuộc lễ kéo dài nhiều ngày nhất và quan trọng nhất, vì, ngoài lễ cầu hòa bình, còn kèm chúc mừng sinh nhật và truyền quán đỉnh đặc biệt.
(Xem: 13251)
Tôi xem thật là quan trọng để có một đời sống hạnh phúc. Cội nguồn chính của hạnh phúc là trong chính chúng ta.
(Xem: 11629)
Cho đến nay tư tưởng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn Dân Tộc Việt Nam thành một khối keo sơn khó phai mờ và lay chuyển...
(Xem: 13378)
Ngược dòng thời gian, cách đây cả 2300 năm, Trung quốc là nước đã biết trồng dâu nuôi tầm, lấy kén ươm tơ dệt lụa... Lê Chương
(Xem: 11866)
Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13692)
Vườn tâm hoa tuệ của những câu chuyện đầy yêu thương sẽ được theo những bước chân của mình trên những vấn đề của cuộc sống nơi xứ người để mang lên sẻ chia...
(Xem: 12429)
Tất cả những gì Ngài chọn, tất cả cả những gì Ngài làm và tất cả những gì Ngài nói đều là hành hoạt của một vị Thánh, của một vị Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant