Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh Là Nền Tảng Từ Đó Mọi Hiện Hữu Lưu Xuất Và Biểu Lộ

30 Tháng Bảy 202119:56(Xem: 3566)
Phật Tánh Là Nền Tảng Từ Đó Mọi Hiện Hữu Lưu Xuất Và Biểu Lộ

Phật Tánh Là Nền Tảng Từ Đó Mọi Hiện Hữu Lưu Xuất Và Biểu Lộ


Nguyễn Thế Đăng

Công Đức Chiêm Bái Phật Tích

 

Phật tánhNhư Lai tạng” (phẩm Như Lai tánh). Tạng có nghĩa là bao trùm chứa giữ tất cả chúng sanh và muôn sự muôn vật, tất cả hiện hữu thanh tịnhbất tịnh.

Phật tánhtánh Không, ánh sáng và năng lực.

Tánh Không, ánh sáng và năng lực là Nền tảng tạo ra tất cả mọi hiện hữu của sanh tửNiết bàn. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sự tạo ra tất cả mọi hiện hữu là như thế nào.

 

Tánh Không

Phật dạy: Thiện nam tử! Bản tánh của tất cả các pháp vốn trụ nơi vô trụ.

Thiện nam tử! Phàm nói rằng trụ, đó gọi là sắc pháp. Từ nhân duyên sanh nên gọi là trụ. Nhân duyên không có xứ sở, nên gọi là vô trụ. Như Lai đã đoạn dứt tất cả sắc trói buộc, vì sao lại nói rằng Như Lai trụ? Với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Trụ là pháp hữu vi. Như Lai đã đoạn dứt các pháp hữu vi nên là chẳng trụ. Trụ là pháp trống không. Như Lai đã đoạn dứt pháp trống không như vậy, thế nên được thường, lạc, ngã, tịnh. Trụ là hai mươi lăm cõi hữu. Như Lai đã đoạn dứt hai mươi lăm cõi hữu, vì sao lại nói nguyện xin Như Lai trụ?

Có trụ tức là tất cả phàm phu. Các thánh thì không đi, không đến, không trụ. Như Lai đã đoạn dứt các tướng đi, đến, trụ, vì sao lại nói nguyện xin trụ?

Phàm vô trụ gọi là Vô Biên Thân. Phàm vô trụ gọi là hư không. Tánh của Như Lai đồng như hư không, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụ gọi là Kim cương tam muội: Kim cương tam muội phá tan tất cả trụ. Kim cương tam muội tức là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụ gọi là huyễn. Như Lai đồng huyễn, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụ là vô chung vô thủy. Tánh của Như Lai không có thủy chung, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụpháp giới vô biên. Pháp giới vô biên tức là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụchúng sanh giới vô biên. Như Lai đã đến tột vô biên của tất cả chúng sanh giới mà không có chỗ trụ.

Lại vô trụ gọi là không có chỗ ở. Không có chỗ ở gọi là không hiện hữu. Không hiện hữu gọi là vô sanh, vô sanh gọi là không chết. Không chết gọi là vô tướng. Vô tướng gọi là không trói buộc. Không trói buộc gọi là không vướng mắc. Không vướng mắc gọi là không phiền não. Không phiền não tức là thiện. Thiện là vô vi. Vô vi tức là Đại Niết bàn. Đại Niết bàn tức là thường, thường tức là ngã, ngã tức là tịnh, tịnh tức là lạc. Thường, lạc, ngã, tịnh chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Ví như hư không, chẳng trụ mười phương, Như Lai cũng thế, chẳng trụ mười phương” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Tất cả các pháp vốn trụ nơi vô trụ, nghĩa là trụ nơi tánh Không. Tánh Không là nền tảng vô trụ của tất cả các pháp, của mọi sự xuất hiện. Vô trụ có nghĩa là toàn khắp, không chỗ nào không có như hư không, là luôn luôn hiện hữu.

Các pháp do nhân duyên sanh ra tức các pháp hữu vi thì có chỗ trụ. Và có chỗ trụ bèn có không gian thời gian, có chỗ trụ bèn tạo thành sanh tử với hai mươi lăm cõi hữu.

Có trụ bèn là có tướng, có tướng tức là có sanh tử. Thế nên người tu hành chỉ cần nhớ và thực hành: có trụ là có sanh tử, không trụ tức là Niết bàn.

Tất cả các pháp và chúng sanh vốn trụ nơi vô trụ, không đến, không đi, không trụ. Thế mà người thường lại thấy các pháp và chúng sanh có trụ, có đến, có đi. Bởi vì thấy tất cả là có thật, thật trụ, thật đến, thật đi, chính cái này tạo ra sanh tử để lọt ngay vào. Trong khi đó, thực tạivô trụ, là huyễn: “Lại vô trụ gọi là huyễn, Như Lai đồng huyễn, sao lại nói rằng trụ?”.

Thật ra, các pháp và chúng sanh được sanh ra, được phóng chiếu ra từ nền tảng Phật tánh vô trụ là tánh Không, cho nên các pháp và chúng sanh chính là tánh Không, “không trói buộc, không vướng mắc”. Các pháp và chúng sanh vốn là tự giải thoát.

 

Nhưng tánh Không không có nghĩa là không có gì cả, Kinh nói đến Trung đạo: Không – Bất không. Tánh Không cũng tức là Phật tánh, cũng tức là Như Lai, cũng tức là Đại Niết bàn, cũng tức là Vô Biên Thân, cũng tức là thường lạc ngã tịnh.

Các pháp và chúng sanh vốn trụ nơi vô trụ, các pháp lưu xuất từ vô trụ, mà vô trụ tức là Như Lai, tức là Đại Niết bàn, tức là Vô Biên Thân. Thế nên các pháp và chúng sanh lưu xuất từ Như Lai vô trụ, các pháp là biểu hiện của “tánh Như Lai đồng với hư không”.

Kinh nói rất nhiều lần, “Như Lai là Đại Từ Đại Bi, Như Lai là Phật tánh”. Như thế nếu nhìn từ nền tảng Đại Từ Đại Bi, thì tất cả các pháp và chúng sanh đều lưu xuất từ Đại Từ Đại Bi Như Lai, đều là sự biểu lộ của Đại Từ Đại Bi Như Lai.

 

Để nhìn thấy sự lưu xuất, biểu lộ từ “đồng một Phật tánh” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống) như thế nào, chúng ta trích ra hai thí dụ.

Thiện nam tử! Ví như núi Tuyết có một vị thuốc tên là Dược Vị. Thuở trước có vị vua Chuyển luân vì món thuốc ấy đặt những ống tre để tiếp lấy thuốc có vị ngon ngọt ấy. Sau khi vua qua đời, thuốc lại trở nên chua, mặn, ngọt, đắng, hoặc cay, nhạt. Thuốc ấy vốn chỉ một vị, nhưng khi mang đến xứ này xứ khác, nó lại biến thành những mùi vị khác. Người thường ít phước đào bới khó nhọc cũng không thể gặp.

Thiện nam tử! Vị của Như Lai tạng sâu kín cũng như vậy, vì các rừng bụi phiền não che đậy, chúng sanh vô minh chẳng thể thấy được. Một vị thuốc thí dụ cho Phật tánh. Do các phiền não nên xuất hiện nhiều các vị khác như là địa ngục, súc sanh, quỷ đói, trời, người, nam, nữ, Sát đế lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà…

Phật tánh hùng mãnh không thể hư hoại nên không ai có thể giết hại được. Phật tánh như thế rốt cuộc chẳng có thể đoạn dứt, vì tánh không bao giờ có thể đoạn dứt được” (phẩm Như Lai tánh). 

Phật tánh là Dược Vị có trước, vốn hiện hữu, rồi các vị chúng sanh khác biệt mới xuất hiện sau. Bởi thế Phật tánh mới được gọi là “Tạng sâu kín”.

Phật tánh trước sau chỉ một vị, nhưng từ một vị Phật tánh ấy mà lưu xuất các loại chúng sanh là do vô minh phiền não nghiệp báobiểu lộ. Nhưng dù có vô minh phiền não nghiệp báo kiểu nào thì Phật tánh không thể hư hoại, không thể đoạn dứt được. Phật tánh vẫn hiện hữu trong tất cả các loại chúng sanh.

Thiện nam tử! Như thợ kim hoàn dùng một chất vàng tùy ý tạo ra các thứ trang sức: dây chuyền, vòng, xuyến, đeo tay, mão, ấn. Dầu các món ấy khác biệt nhau nhưng không lìa ngoài chất vàng” (phẩm Thánh Hạnh).

Tất cả mọi hình tướng, thấy bề ngoài khác nhau nhưng đồng một chất vàng. Và Phật tánh vàng có trước những xuất hiện của mọi hình tướng chúng sanhsanh tử.

Ở cả hai thí dụ cho thấy tất cả chúng sanh đều đồng một Phật tánh, đều lưu xuất, biểu lộ từ một Phật tánh, nhưng bị mê mờ, đi lạc vào những khác biệt, đó là do cái thấy mê lầm. Sự khác biệt của tất cả mọi sự vật là huyễn, là cái thấy của người vô minh.

Cái thấy huyễn hoặc này được kinh nói là “như hoa đốm giữa hư không”:

Bồ tát Ca Diếp nói: Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói: Phật tánh của chúng sanh giống như hư không. Thế nào gọi là hư không?

- Thiện nam tử! Tánh hư không chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Phật tánh cũng như vậy.

Hư không chẳng phải quá khứ. Vì sao thế? Vì không có hiện tại. Nếu có hiện tại mới có thể nói đến quá khứ. Vì không có hiện tại nên không có quá khứ. (hư không) cũng không có hiện tại. Vì sao thế? Vì không có vị lai. Nếu có vị lai mới có thể nói đến hiện tại. Vì không có vị lai nên không có hiện tại. Cũng không có vị lai. Vì sao thế? Vì không có hiện tạiquá khứ. Nếu có hiện tại, quá khứ thì có vị lai. Vì không có quá khứ, hiện tại nên không có vị lai. Do nghĩa này nên tánh của hư không chẳng phải có ba đời.

Thiện nam tử! Vì hư không là không nên không có ba đời, chẳng phải vì có mà không có ba đời. Như hoa đốm giữa hư không, chẳng phải là có nên không có ba đời. Hư không cũng như vậy, chẳng phải là có nên không có ba đời.

Thiện nam tử! Không có một vật, đó là hư không. Phật tánh cũng như vậy. Vì hư không là không nên không có ba đời. Phật tánh là thường nên không có ba đời” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

 

Ánh sáng

Lúc ấy, đức Thế Tôn khen ngợi Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ông khéo biết tất cả pháp là như huyễn, như tia lửa, như thành Càn thát bà, như hình vẽ trên mặt nước, như bọt nước, như thân cây chuối, rỗng không không có thật, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, như chỗ thấy biết của Thập Trụ Bồ tát.

Bấy giờ giữa đại chúng bỗng nhiên trong khoảnh khắc có ánh sáng vĩ đại. Trong ánh sáng ấy, chẳng phải xanh mà thấy là xanh, chẳng phải vàng mà thấy là vàng, chẳng phải đỏ mà thấy là đỏ, chẳng phải trắng mà thấy là trắng, chẳng phải hình sắc mà thấy là hình sắc, chẳng phải phân biệt rõ ràng mà thấy là phân biệt rõ ràng, chẳng phải là cái thấy mà có cái thấy.

Bấy giờ đại chúng gặp ánh sáng ấy rồi, thân tâm khoái lạc như tỳ kheo nhập định Sư Tử Vương.

Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Thế Tôn, ánh sáng này nay ai phóng ra?

Bấy giờ Như Lai im lặng chẳng nói.

Bồ tát Ca Diếp lại hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi: Nhân duyên gì mà có ánh sáng này chiếu giữa đại chúng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi im lặng chẳng đáp.

Lúc ấy Bồ tát Vô Biên Thân lại hỏi Bồ tát Ca Diếp: Nay ánh sáng này là của ai?

Bồ tát Ca Diếp im lặng chẳng nói.

Bồ tát Tịnh Trụ Vương Tử lại hỏi Bồ tát Vô Biên Thân: Nhân duyên gì mà giữa đại chúng có ánh sáng này?

Bồ tát Vô Biên Thân im lặng chẳng nói.

Năm trăm Bồ tát đều như vậy, lần lượt hỏi nhau, nhưng không ai trả lời.

Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi: Nhân duyên gì mà giữa đại chúng đây có ánh sáng này?

Văn Thù Sư Lợi nói: Bạch Thế Tôn! Ánh sáng này gọi là Trí huệ. Trí huệ chính là thường trụ. Pháp thường trụ không có nhân duyên.

Ánh sáng này gọi là Đại Niết bàn. Đại Niết bàn gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên.

Ánh sáng này tức là Như Lai. Như Lai tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên.

Ánh sáng này gọi là Đại Từ Đại Bi. Đại từ Đại bi gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Khi thấy biết các pháp là như huyễn, như ảo ảnh, rỗng không không có thật thì ánh sáng xuất hiện. Lúc ấy đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Đức Phật nhân duyên có ánh sáng này, và Đức Phật im lặng không đáp. Ngài không trả lời vì ngài biết ánh sáng này không do nhân duyên, nghĩa là thường trụ, ánh sáng thường trụ tức là Phật.

Sau khi các Bồ tát hỏi nhau, nhưng không vị nào trả lời, Đức Phật hỏi lại ngài Văn Thù Sư Lợi, bậc được xem là trí huệ bậc nhất trong hàng Bồ tát. Bồ tát Văn Thù đã giải thích Ánh Sáng ấy là Trí huệ, là Đại Niết bàn, là Như Lai, là Đại từ Đại bi, tất cả những từ ngữ này theo kinh đều đồng nghĩa với Phật tánh. Trí huệ, Đại Niết bàn, Như Lai, Đại từ Đại bi hay Phật tánhthường trụ vì không do nhân duyên.

Thường trụ vì không từ nhân duyên cũng tức là tánh Không. Tánh Không và Ánh Sáng hay Phật tánh đều thường trụ vì không do nhân duyên, tánh Không và Ánh Sáng là một.

Tánh Không và Ánh Sáng là Nền tảng thường trụ, không do nhân duyên cho mọi nhân duyên xuất hiện. Và mọi nhân duyên xuất hiện thì vì do các nhân duyên tạm thời tụ hợp mà thành nên không thường trụ, “như huyễn, như ảo ảnh, như hình vẽ trên mặt nước, rỗng không không có thật…

Ánh sáng Phật tánh là nền tảng thường trụ, không do nhân duyên, cho mọi xuất hiện, và mọi xuất hiệnnhư huyễn, như ảo ảnh.

Kinh nói về ánh sáng và những xuất hiện trong ánh sáng này như sau:

Trong ánh sáng ấy, chẳng phải xanh mà thấy là xanh, chẳng phải vàng mà thấy là vàng, chẳng phải đỏ mà thấy là đỏ, chẳng phải trắng mà thấy là trắng, chẳng phải hình sắc mà thấy là hình sắc, chẳng phải phân biệt rõ ràng mà thấy là phân biệt rõ ràng, chẳng phải là cái thấy mà có cái thấy”.

Ánh sáng ấy thì Không, Vô tướng, Vô tác hay Vô nguyện (Ba giải thoát môn). Chính từ Nền tảng ánh sáng ấy mà có những cái thấy tùy theo nghiệp của chúng sanhxuất hiện, nghiệp người thấy thế giới của người, nghiệp thú vật thấy thế giới của thú vật, nghiệp chư thiên thấy thế giới của chư thiên…

Chẳng phải là cái thấy mà có cái thấy” nghĩa là tất cả những cái thấy sai khác của chúng sanh đều có từ nền tảng “chẳng phải là cái thấy”. Như thế, tất cả những cái thấy sai khác đều như huyễn.

Cái thấy hình tướng, màu sắc, hình dạng… của tất cả đều từ nền tảng ánh sáng ấy mà phóng chiếu, lưu xuất. Nói cách khác, nền tảng ánh sáng ấy đã được khúc xạ, biến hóa để thành màu sắc, hình tướng của thế giới chúng sanh tùy theo nghiệp của mỗi loài.

Thế nên chính nơi các màu sắc, hình tướng chúng ta đang thấy, chúng ta có thể tìm thấy nguồn gốc của chúng, nền tảng của chúng là ánh sáng thường trụ, không do nhân duyên. Sống được trong nền tảng ánh sáng ấy và trong những lưu xuất, biểu lộ như huyễn của ánh sáng ấy tức là sống trong Phật tánh, sống trong giải thoát.

Sống trong Phật tánh là sống trong thực tại Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khi các hình tướng không còn che lấp cái Vô tướng vốn sẵn, thì ánh sáng của Vô tướng thấu thoát qua, ánh sáng ấy là nền tảng của mọi hiện tướng. Khi tánh Không không còn bị bao phủ bởi các hình tướng thì tánh Không biểu lộ, hiển hiện rõ ràng nơi các hình tướng như huyễn. Và Vô nguyện là không hy vọng và lo sợ, dù Niết bàn hay sanh tử.

 

Năng lực như huyễn

Ở đoạn kinh trên, phẩm Bồ tát Sư Tử Hống nói:

Tánh của Như Lai đồng như hư không, là vô trụ. Vô trụ gọi là Vô Biên Thân.

Như Laivô trụ. Vô trụ gọi là huyễn, Như Laivô trụ, Như Lai đồng huyễn.

Như Laivô trụ. Vô trụpháp giới vô biên”.

Như Laivô trụ”, vô trụ là một nghĩa của tánh Không, nên Như Laitánh Không. Nhưng tánh Không vô trụ đó không phải là một cái không có gì chết cứng, mà là một hoạt động vô biên như pháp giới vô biên, “Vô trụpháp giới vô biên”. Hoạt động của tánh Không vô trụ để hóa hiện ra pháp giới vô biên, năng lực hóa hiện ấy là năng lực như huyễn, “Vô trụ gọi là huyễn”. “Như Lai đồng huyễn nghĩa là Pháp thân tánh Không vô trụ (hay Như Lai) có năng lực hóa hiện ra pháp giới vô biên, thế nên kinh nói “Như Lai đồng huyễn”. Năng lực hóa hiện như huyễn, huyễn lực này được nói đến trong Phẩm Như Lai Thần Lực của Kinh Pháp Hoa.

Năng lực của vô trụ, của tánh Không, là năng lực của huyễn. Vô trụpháp giới vô biên, năng lực của vô trụ là huyễn, nên năng lực của pháp giới vô biên là huyễn.

Pháp giới là huyễn, các thế giới, chúng sanh, hai mươi lăm cõi không có tướng nhất định, là như huyễn.

Sắc và tướng của sắc, cả hai đều không nhất định. Các tướng của hương, vị, xúc, tướng sanh cho đến tướng vô minh, các tướng ấm, nhập, giới, hai mươi lăm cõi hữu, bốn loài sanh, cho đến tất cả các pháp cũng đều không có tướng nhất định.

Thiện nam tử! Ví như nhà huyễn thuật ở giữa đại chúng biến hóa làm hiện ra bốn loại quân binh xe, bộ, voi, ngựa; làm ra các đồ chuỗi ngọc trang sức, thành ấp, xóm làng, núi rừng, cây cối, suối, ao, sông, giếng… Trong đại chúng ấy có các trẻ con chưa đủ trí, khi thấy những sự vật ấy bèn cho là thật. Người trí trong đó biết là hư dối, do sức huyễn (huyễn lực) mà làm mê lầm mắt người” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Không có tướng nhất định vì đều do biến hóa, và biến hóanhư huyễn. Tất cả các giác quan, mắt tai mũi lưỡi thân ý và các đối tượng giác quan, tất cả hai mươi lăm cõi hữu đều như huyễn. Bồ tát thấy rõ thật tướng như huyễn ấy nên được giải thoát.

Đại Bồ tát tu Đại Niết bàn, biết và thấy pháp giới, hiểu rõ thật tướng không có tất cả tướng: Không có tướng hòa hiệp tri giác. Được tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng gợn nắng, tướng thành Càn Thát Bà. Bồ tát thấy được những tướng như vậy thì không tham sân si, chẳng nghe chẳng thấy. Đây gọi là Đại Bồ tát an trụ thật tướng” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Chính vì an trụ trong nền tảng thật tướng mà thấy các pháp như huyễn hóa. Các pháp như huyễn hóa ấy lưu xuất, hóa hiện, phóng chiếu từ nền tảng thật tướng, từ tánh Không, từ ánh sáng thường trụ. Các pháp như huyễn hóa ấy lưu xuất từ nền tảng, và khi tan biến chúng tan biến vào nền tảng. Thế nên nơi các pháp huyễn hóa Bồ tát có thể nhìn ra được nền tảng của chúng là tánh Không - ánh sáng thường trụ, đó là nền tảng thật tướng của tất cả các pháp. Khi thấy được nền tảng, chúng ta sẽ biết thực hành, nghĩa là thấy các tướng và tưởng đều lưu xuất từ nền tảng (bản tánh của tâm) và tiêu tan lại vào trong đó.

Tánh Không - ánh sáng là thể, và mọi thế giới, chúng sanh như huyễn hóa là cái dụng như huyễn của thể thật tướng thường trụ này. An trụ trong thật tướng, Đại Bồ tát và chư Phật có thể dùng cái dụng như huyễn, “huyễn lực”, để hóa hiện ra các thứ thân để độ thoát cho chúng sanh. Sự việc này được gọi là “thị hiện”, “hiện thân”.

Thiện nam tử! Ví như người thợ vàng có vàng thật tốt làm thành các món đồ tùy theo ý mình. Cũng vậy, Như Lai ở trong hai mươi lăm cõi hữu, vì độ thoát chúng sanh khỏi dòng sanh tử, nên thị hiện các thứ sắc thân tùy ý tự tại, nên Như Lai có hiệu là Vô Biên Thân. Dù có thị hiện ra các thứ sắc thân, nhưng cũng vẫn là thường trụ, không biến đổi” (phẩm Như Lai tánh - phẩm Bồ tát).

Một cách tổng quát, khi kinh nói “Như Lai đồng huyễn” thì khi thấy huyễn bèn là thấy huyễn lực của Phật. Kinh nói tiếp, “Pháp giới vô biênNhư Lai” thì khi thấy pháp giới vô biên là sự biểu hiện của lực huyễn, khi ấy Bồ tát thấy huyễn lực toàn khắp của Phật.

 

Tóm lại, khi thấy một sự vật là tánh Không, ánh sáng và huyễn lực, khi ấy chúng ta thấy nền tảng thường trụ của thế giới, chúng sanh. Ngược lại khi thấy nền tảng Phật tánhtánh Không, ánh sáng và huyễn lực, thì tất cả những kinh nghiệm qua sáu giác quan tạo thành cái chúng ta gọi là sanh tử, trở thành những phóng chiếu của tánh Không, ánh sáng, và huyễn lực. Sanh tử là sự phóng chiếu như huyễn của tánh Không, ánh sáng và huyễn lực. Đó là ý nghĩa của phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên, trong đó có ba lời thuyết pháp cuối cùng của Đức Phật cho thế gian này.

Thấy sự lưu xuất, phóng chiếu biểu hiện của nền tảng, thì những phóng chiếu, biểu hiện ấy chính là nền tảng. Nền tảng Phật tánhtánh Không, ánh sáng và như huyễn nên sự phóng chiếu của nó, tất cả thế giới, chúng sanh, thân tâm đều là tánh Không, ánh sáng và như huyễn.

Chúng sanh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là chúng sanh” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Phật tánh như đại dương chẳng tăng chẳng giảm, vì không có biên giới, vì không thủy không chung, vì là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một Phật tánh” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3405)
Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy tư và tuyên bố rằng: “Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnhthù thắng nhất!”
(Xem: 3773)
Tại Kinh Thành có một vị cư sĩ, có thể nói là bậc “Thiên kinh vạn quyển”, viết không biết bao nhiêu bài bình giảng về giáo lý...
(Xem: 3941)
Khi cầu nguyện, tâm trở nên tĩnh lặng và tập trung. Đó là việc khá tốt cho đời sống nhân loại khi những cầu nguyện mang tính chân, thiện, mỹ.
(Xem: 3552)
Thế là đến chiều tối, đức Phật và chúng tỳ-khưu mới tới được nơi dự định. Trăng vừa lên, sương mù bàng bạc, không gian như trải một màn lụa mỏng.
(Xem: 4512)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và...
(Xem: 3875)
Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng, là một nhân vật quen thuộc của công chúng.
(Xem: 3353)
Như tất cả những vị nghiên cứu đều biết rằng Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương, hầu hết được dịch thẳng từ bản chữ Hán của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 3822)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để...
(Xem: 3521)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 2869)
Bài Pháp thoại (Dharma Talk) ngày 28 tháng 3 năm 2021 tại Chùa Beeh Low See, Singapore và Chùa Mahakaruna Buddhist Center cũng như Chùa Vihara Mahavira Graha Medan tại Indonesia.
(Xem: 3541)
“Một thời Đức Phật ở Câu-tát-la, du hành giữa nhân gian và có đại chúng Tỳ-kheo đi theo.
(Xem: 3813)
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, là gì?" Xếp Kinh lại gối nơi đầu, ngủ trong dòng suối mát của lời Kinh nhiệm mầu.
(Xem: 2952)
Theo quan điểm của anh chị, Nhẫn nhụcAn phận khác và giống nhau chỗ nào? Quý anh chị chia sẽ kinh nghiệm Người Huynh Trưởng thực hành Hạnh Nhẫn Nhục như thế nào trong đời sống và sinh hoạt GĐPT?
(Xem: 5087)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và thấm một lớp mỏng
(Xem: 3518)
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ, một nơi hiện nay là...
(Xem: 3302)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để bước vào thế giới một đức tin khác.
(Xem: 3908)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma, tự gọi ngài là một thầy tu giản dị
(Xem: 3878)
Thiền sư Seigan Shōtetsu (1381-1459) là một trong vài người làm thơ nhiều nhất trong thi giới Nhật Bản.
(Xem: 4362)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3755)
Huyền Trân Công Chúa, một anh thư rực sáng của nền trời nước Việt!
(Xem: 4111)
Bốn mươi câu trích dẫn lời Đức Phật dưới đây được chọn lọc trong số 60 câu đã được đăng tải trên một trang mạng bằng tiếng Pháp
(Xem: 3809)
Giảng luận về bài “ Bình Ngô Đại Cáo” ( 曹鶴岱平 ) ( Great Proclamation of Đại Việt Victory over Northern Invaders, translated by Prof. Nguyễn Cao Hách – University of Saigon )
(Xem: 3775)
Tôi nhớ lại một cuộc trao đổi đầy băn khoăn vài năm trước đây mà tôi có với một người Mỹ
(Xem: 3802)
Vào ngày 06.3.2021, Tu Viện Pháp Vương khởi sự cho một công trình "Ngày Hội Trồng Cây". Quí Phật tử vân tập về mảnh đất yêu thương của mình mà Tu Viện đã sẵn sàng cho khoảnh vườn cây ăn trái.
(Xem: 3798)
Tôi chưa bao giờ được rèn luyện trong khoa học. Kiến thức của tôi chính yếu có từ việc đọc những tin tức bao gồm...
(Xem: 4290)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 4162)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 3369)
Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020
(Xem: 3338)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3272)
Vào lúc Hán học còn thịnh hành tại Việt Nam trước 1975, những nghiên cứu về phật giáo đa phần quy chiếu vào kinh sách hay ...
(Xem: 5630)
Phật tánh là tạng báu tánh giác (giác bảo tạng) mà tất cả chúng sanh đều sẳn có, như kho vàng ròng của người...
(Xem: 3625)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại...
(Xem: 3933)
Trong chương này tôi sẽ giải thích về tính vô thường, trình độ thứ nhất của hai trình độ của tuệ giác vào tiến trình của sinh tử luân hồi.
(Xem: 4152)
Trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn đã dạy cho Long Vương ở tại cung điện Long Vương Ta Kiệt La rằng...
(Xem: 3674)
Cứ mỗi độ xuân về, khoảng đầu tháng chạp là nhà ngoại rộn ràng tất bật.
(Xem: 4324)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo.
(Xem: 4116)
Có một vấn đề tưởng chừng như đáng cho Phật tử chúng ta để ý: Vấn đề ân nghĩa.
(Xem: 4189)
Mỗi năm Tết đến, khi những làn mưa Xuân nhè nhẹ, gió Xuân mơn man ùa về trên những vườn mai vàng, những cành đào
(Xem: 3651)
Hoằng pháp là một trong những trách nhiệm quan trọng của người đệ tử Phật. Chính vì thế mà chư tổ dạy rằng
(Xem: 3467)
con người, chúng ta sống trong đời này đều trải qua nhiều giai đoạn với niềm vui lẫn nỗi buồn.
(Xem: 3881)
Cuộc pháp thoại giữa Đức PhậtTrưởng lão Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang Bát Nhã là một pháp thoại sâu sắc
(Xem: 3913)
Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng...
(Xem: 3669)
Trên con đường tu hành, hành giả thường gặp phải những thứ chướng ngại và những thứ chướng ngại đây gọi chung là “Ma”.
(Xem: 5223)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người cảm thấy rất khó để hướng lòng nhân ái đến bản thân.
(Xem: 3085)
Cảm Nhận Sự Thấu Cảm - Nguyên bản: Feeling Empathy. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7217)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3420)
Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúatác phẩm có tính đặc trưng nhất về thủ pháp nghệ thuật lồng ghép truyện trong truyện, đan xen tình tiết, cài cắm tư tưởng khi trần thuật của nhà văn Thích Như Điển
(Xem: 4365)
Thế gian ly sanh diệt. Du như hư không hoa. Trí bất đắc hữu vô. Nhi hưng đại bi tâm.
(Xem: 3626)
Khi chúng ta phát triển một ý tưởng thô về ý nghĩa gì là sự lệ thuộc trên tư tưởng, chúng ta nên tự hỏi mình rằng...
(Xem: 3288)
Nguyên bản: View Yourself As Like an Illusion. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant