Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niệm Niệm Tương Ưng, Niệm Niệm Thành Phật.

14 Tháng Chín 202107:28(Xem: 3168)
Niệm Niệm Tương Ưng, Niệm Niệm Thành Phật.

NIỆM NIỆM TƯƠNG ƯNG, NIỆM NIỆM THÀNH PHẬT.
Thiền Sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715)

Nguyễn Thế Đăng


Đời Như Tấm Gương Soi


Ngữ lục
của Thiền sư Minh Châu Hương Hải:

Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào. Người học biết một niệm vừa khởi thì rõ chẳng thể đắc, đó là quá khứ Phật. Quá khứ không có, vị lai cũng không, đó là vị lai Phật. Ngay bây giờ, niệm niệm chẳng dừng, đó là hiện tại Phật. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Đó là pháp môn phương tiện tối sơ”.

 

(Hựu vân: Ngã nhất cử tâm dĩ thuộc quá khứ. Ngã tâm vị cử phương danh vị lai. Phi vị lai tâm tức quá khứ tâm, hiện tại chi tâm phục tại hà xứ. Học giả tri nhất niệm tài khởi, liễu bất khả đắc, thị quá khứ Phật. Quá khứ bất hữu, vị lai diệc không, thị vị lai Phật. Tức kim niệm niệm bất tại, thị hiện tại Phật. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Thử thị tối sơ phương tiện chi môn.)

 

Trong đoạn ngữ lục này, ngài chỉ dạy về tâm. Sự chỉ dạy ấy có tính cách trực tiếp, chỉ thẳng cho người đã chuẩn bị bằng thiền định (Chỉ) và thiền quán (Quán) khiến họ có thể trực tiếp thấy bản tánh của tâm.

Con ngườiý thức rõ ràng hay một cách vô thức, luôn luôn đi tìm cách thoát khỏi cái chết, nói cách khác, luôn luôn đi tìm sự bất tử. Bởi vì, ai cũng biết thân thể này sẽ chết, cho nên chỉ còn có thể tìm nơi tâm, nơi bản tánh của tâm, nơi bản tâm. Theo kinh điển và theo kinh nghiệm của những vị đã chứng ngộ thì bản tâm ấy không chết. Đó là lý do của người tìm đạo, nghĩa là tìm bản tâm, tìm con người thật không bị sống chết trói buộc.

Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ”. Tâm vừa khởi thì lập tức nó đã là quá khứ, đã trôi theo thời gian, và không thể nắm giữ. Vậy thì tâm khởi không phải là bản tâm mà ta tìm kiếm. Bản tâm không phải thuộc về quá khứ.

Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai”. Nếu tìm tâm ở vị lai thì chẳng có tâm, vì tâm chưa khởi thì không có tâm, có gì mà tìm. Ở vị lai mãi mãi sẽ không có tâm, vì tâm chỉ có khi tâm khởi, mà vị lai thì không có tâm khởi.

Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào”. Tâm vị lai chẳng phải là tâm quá khứ, hai tâm khác biệt nhau chứng tỏ có sự thay đổi, thì đâu phải là bản tâm bất biến, vượt ngoài thời gian, vượt ngoài sự sanh diệt.

Tâm hiện tại thì không có dấu vết, vì không phải “vừa khởi” của tâm quá khứ và không phải “chưa khởi” của tâm vị lai.

Bằng thiền địnhthiền quán, chúng ta không thể tìm thấy ba tâm, và chúng ta thấy ra sự thật: ba tâm chẳng thể đắc, bất khả đắc. Sự thật này vẫn thường được nói trong kinh. Chẳng hạn, Kinh Kim Cương nói: “Tâm quá khứ chẳng thể đắc, tâm hiện tại chẳng thể đắc, tâm vị lai chẳng thể đắc”.

Sự thật tâm là tánh Không, mà người xưa nói là “tâm Không”, “vô tâm”. Bản tánh của tâm là tánh Không, đó là sự giải thoát cho cả ba tâm. Bản tánh của tâm vừa khởi, của tâm đang khởi và của tâm sẽ khởi là tánh Không. Tâm vừa khởi, tâm đang khởi, tâm sẽ khởi là tánh Không. Nghĩa là mặc cho tâm vừa khởi đang khởi hay sẽ khởi, chúng vẫn là tánh Không chẳng thể đắc. Chúng không thể tạo ra thời gian, tạo ra có sống có chết.

 

Người học biết một niệm vừa khởi thì rõ chẳng thể đắc, đó là quá khứ Phật. Quá khứ không có, vị lai cũng không, đó là vị lai Phật. Ngay bây giờ, niệm niệm chẳng dừng, đó là hiện tại Phật”. “Chẳng thể đắc” này chính là Phật, chính là Pháp thân, chính là thực tại “chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm” (Bát Nhã Tâm Kinh).

Nhưng Kinh Đại Bát Nhã nói tánh Không là tánh Như, và tánh Như chính là Như Lai, là Phật:

Như Lai tướng Như tức là tất cả các pháp tướng Như, tất cả các pháp tướng Như tức là Như Lai tướng Như. Lại Như Lai Như là tướng thường trụ, Tu Bồ Đề như cũng là tướng thường trụ. Như Lai tướng Như không dị không biệt, Tu Bồ Đề tướng Như cũng không dị không biệt…

Lại Như Lai Như chẳng ở trong Như quá khứ, chẳng ở trong Như vị lai, chẳng ở trong Như hiện tại. Quá khứ Như, vị lai Như, hiện tại Như cũng chẳng ở trong Như Lai Như, vì là một Như, không hai không khác. Sắc Như, Như Lai Như; thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như, là một Như, không hai không khác”. (Kinh Đại Bát Nhã, phẩm Đại Như).

Tánh Không là tánh Như, đó cũng là Pháp thân, là Như Lai. Như Lai là tướng Như, tướng Như đó là tướng Như của tất cả các pháp, của tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai. Tất cả là một Như, không hai không khác. Như đó là Phật, là Pháp thân

Thế nên, Thiền sư Hương Hải nói quá khứ, hiện tại, vị lai đều không nhưng không phải là không có gì cả mà là “quá khứ Phật, vị lai Phật, hiện tại Phật”. Nói cách khác, quá khứ, hiện tại, vị lai là tướng Như, tướng Như ấy là thật tướng của Phật và của tất cả các pháp: “quá khứ Phật, vị lai Phật, hiện tại Phật”.

 

Mỗi niệm mỗi niệm tương ưng, tức mỗi niệm mỗi niệm thành Phật”. Nếu mỗi niệm mỗi niệm tương ưng với tánh Không, hay tánh Như, hay Pháp thân này, thì mỗi niệm mỗi niệm thành Phật.

Chúng ta đều biết trong ngôn ngữ Thiền tông, “nhất niệm tương ưng” là đốn ngộ, thấy trực tiếp thực tại và “niệm niệm tương ưng” là tiệm tu, nhập sâu vào thực tại, mà kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhập Pháp Giới.

“Niệm” là gì? Niệm là chữ Hán Việt, gồm chữ “kim” (hiện tại, khoảnh khắc hiện tại) ở trên và chữ “tâm” (những hoạt động của tâm) ở dưới. Như thế, niệm gồm hai nghĩa, một nghĩa nhấn mạnh về thời gian, và một nghĩa nhấn mạnh về hoạt động của tâm. Niệm niệm là khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, và niệm niệmý tưởng này qua ý tưởng khác.

Niệm niệm tương ưng, niệm niệm thành Phật nghĩa là từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác đều tương ưng với Pháp thân, với Phật, cho nên dòng tâm thức thanh tịnh tương tục từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác chính là Phật, là tâm Phật. Niệm niệm thành Phật là từng khoảnh khắc một đều là Phật.

Nếu hiểu niệm là ý nghĩ thì câu trên nghĩa là mỗi ý nghĩ mỗi ý nghĩ đều tương ưng với Pháp thân, với Phật thì mỗi ý nghĩ mỗi ý nghĩ đều là Pháp thân, đều là Phật.

 

Câu kết luận của đoạn chỉ dạy này là:

Đó là pháp môn phương tiện tối sơ”.

“Tối sơ” là ở ngay đầu nguồn. Ở ngay đầu nguồn là nơi ấy tâm chúng sanhtâm Phật không khác nhau, chân và vọng cùng một thể, như ở đoạn sau Thiền sư Hương Hải nói:

“Cho nên chân và vọng, vật và ta, nêu lên một mà gồm thu tất cả. Tâm, Phật và chúng sanh vốn vẫn cùng chung một đường”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16685)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24150)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20579)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18824)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21326)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18285)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19852)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14848)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12978)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13965)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13151)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14014)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17639)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15406)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14702)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14457)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17867)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21908)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19460)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20607)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25141)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16880)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14719)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18986)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22012)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20637)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25292)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15773)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15776)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20730)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17018)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18641)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20025)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39318)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31519)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30662)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36028)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23874)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26552)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant