Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười Phương Pháp Đối Trị Buồn Ngủ Trong Kinh Trung A-hàm

13 Tháng Năm 202215:34(Xem: 2946)
Mười Phương Pháp Đối Trị Buồn Ngủ Trong Kinh Trung A-hàm

Mười Phương Pháp Đối Trị Buồn Ngủ Trong Kinh Trung A-hàm

Chúc Phú


Mười Phương Pháp Đối Trị Buồn Ngủ Trong Kinh Trung A-hàm

Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ (睡眠). Loại phiền não này có khả năng làm tâm mê mờ, che lấp trí tuệ, là một trong năm thứ ngăn che[2], thế nên cần phải tìm cách hóa giải và đoạn trừ chúng.

Theo nội dung kinh văn, khi vừa mới xuất gia và nhận lãnh pháp hành từ Đức Phậttôn giả Đại Mục-kiền-liên liền đến thôn Thiện Tri Thức[3] thuộc nước Ma-kiệt-đà, tìm một nơi yên tĩnh để thiền tọa. Trong khi hành thiền, một cơn buồn ngủ bất chợt khởi lên nhưng tôn giả vẫn chưa biết cách để chuyển hóahàng phục. Biết rõ việc này, mặc dù ở cách đó rất xa, thuộc nước Bà-kỳ(婆奇)[4], bằng thần lực của mình, Đức Phật đã hiện ra trước mắt tôn giả Đại Mục-kiền-liên và chỉ bày cách thức chuyển hóa cơn buồn ngủ.

Theo Đức Phật, có mười phương pháp để chuyển hóa cơn buồn ngủ. Đó là:

  1.  Nếu pháp tu nào gây buồn ngủ thì chớ tu tập và cũng đừng thực hành nhiều theo pháp ấy. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  2. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy nương theo giáo pháp đã được nghe trước đây rồi thọ trìđọc tụng rộng rãi. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  3. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy nương theo giáo pháp đã được nghe trước đây, rồi thọ trìdiễn giải rộng rãi cho người khác. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  4. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy nương theo giáo pháp đã được nghe trước đây, rồi thọ trìsuy tưởng về tâm, chuyên chú về tâm. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  5. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy dùng hai tay xoa lên hai tai. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  6. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy lấy nước lạnh rửa mặt và tắm gội thân thể. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  7. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy ra khỏi thất, xem khắp bốn phương, ngước nhìn các vì sao. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  8. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy ra khỏi thất, đến khoảng đất trống phía đầu thất mà kinh hànhgiữ gìn các căn, khởi tưởng tâm an trú bên trong, phía trước, phía sau. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.
  9. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy rời bỏ con đường đang kinh hành, đến đầu con đường ấy trải tọa cụ rồi ngồi kiết-già. Như vậy, chứng buồn ngủ liền có thể chấm dứt.

10. Nếu chứng buồn ngủ vẫn không thể chấm dứt thì hãy trở vào thất, gấp y Ưu-đa-la tăng làm bốn rồi trải lên giường, gấp y Tăng-già-lê làm gối, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau, tâm khởi tưởng nơi ánh sáng, an trú trong tỉnh giác chánh niệm, luôn khởi tưởng muốn thức dậy.

Trên đây là mười phương pháp dùng để chuyển hóa cơn buồn ngủ mà Đức Phật đã tùy thuận nhân duyên giảng dạy cho ngài Đại Mục-kiền-liên. Từ những phương cách này cho thấy, để hàng phục và chuyển hóa phiền não thì có nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau. Tùy theo nhân duyênnghiệp lực của mỗi người mà chúng ta có thể lựa chọn cho mình những phương cách chuyển hóa và hàng phục phiền não thích hợp,. Điều này được Đức Phật khẳng định rõ ràng trong kinh Tất cả các lậu hoặc[5]:

Này các Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ[6].



[1] Nguyên tác: Trưởng lão thượng tôn thụy miên kinh 長老上尊睡眠經 (T.01. 0026.83. 0559b27). Tham chiếuLy thùy kinh 離睡經 (T.01. 0047. 837a06); Tăng. 增 (T.02. 0125.19.3. 593c13); A.7.61-IV. 85.

[2] Ngũ cái (五蓋, Pañca āvaraṇāni): Năm thứ phiền não che lấp tâm tính, làm cho pháp lành không thể phát sinh. Đó là: Tham dụcsân hận, thùy miên, trạo cử, nghi. Theo, DA.09; SA.611.

[3] Thiện tri thức thôn (善知識村, Kallavāḷamutta gāma): Một thôn ở nước Ma-kiệt-đà (Magadha). Ngài Đại Mục-kiền-liên ở đây ngay sau khi vừa xuất gia.

[4] Nguyên tác Bà-kỳ-sấu (婆奇瘦, Bhaggesu): Bhagga (Bà-kỳ) là một tiểu quốc, có thủ phủ là Sumsumāragiri.

[5] M.03. Kinh Tất cả các lậu hoặc (Sabbāsava Sutta).

[6] Nguyên tác Pāli: Atthi, bhikkhave, āsavā dassanā pahātabbā, atthi āsavā saṁvarā pahātabbā, atthi āsavā paṭisevanā pahātabbā, atthi āsavā adhivāsanā pahātabbā, atthi āsavā parivajjanā pahātabbā, atthi āsavā vinodanā pahātabbā, atthi āsavā bhāvanā pahātabbā.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2626)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2510)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2318)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2630)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2413)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3218)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2289)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2382)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2510)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2520)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2165)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2548)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3026)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2620)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2675)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2519)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2555)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4027)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2755)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3018)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3281)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2488)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2771)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2977)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2843)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2595)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2606)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2253)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2359)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2463)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2579)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2665)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2709)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3243)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2541)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2114)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2569)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2032)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2796)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2872)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2904)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2687)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2481)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2756)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3265)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant